MẶT TRẬN THƯỜNG ĐỨC : TRẬN ĐÁNH VI PHẠM HIỆP ĐỊNH PARIS, THĂM DÒ PHẢN ỨNG CỦA HOA KỲ. PHẦN 1
https://www.youtube.com/watch?v=VmRqTMgJnsE
Vào mùa thu năm 1974, áp lực địch tại Vùng 1 Chiến Thuật gia tăng khủng khiếp.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn đã họp các tư lệnh quân, binh chủng bàn kế hoạch phòng thủ cuối cùng trên toàn Quân Khu, đặc biệt những điểm " nóng " như Huế, Chu Lai, và Đà Nẳng.
Tại mặt trận Thường Đức, Sư Đoàn Nhảy Dù đã chiến thắng vẻ vang trên ngọn đồi 1062.
Tướng Cộng Sản Nguyễn Thị Định đã tuyên bố :
- " Sẽ vào Đà Nẵng như chỗ không người. "
Tuy nhiên, lời tuyên bố này đã bị lực lượng Nhảy Dù xóa sổ và niêm phong.
Viên tư lệnh lực lượng Bắc Việt tại Thường Đức đã mất chức do bị thiệt hại nặng nề.
Trong suốt năm tháng miệt mài quần thảo với quân Bắc Việt, các binh sĩ Nhảy Dù chưa từng thấy chiến trường nào mà quân Cộng Sản lại làm hầm hố vô cùng kiên cố như mặt trận Thường Đức.
Những hầm chữ A để chống bom được đào sâu như những giếng nước, hoặc làm dưới những khe suối được che chở bằng vách đá và cây rừng cổ thụ.
Đường giây điện thoại chằng chịt như mạng lưới điện thoại ở thành phố Saigon.
Mọi sự liên lạc vô tuyến hạn chế để tránh bị quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phát giác.
Dẫu thế, Phòng Truyền Tin của Sư Đoàn Nhảy Dù cũng đã bắt được những mật điện quan trọng của địch và đã giải hóa một cách dễ dàng. Nhờ vậy họ đã biết được kế hoạch điều quân của các lực lượng tham chiến Bắc Việt tại Thường Đức.
Các chiến sĩ Nhảy Dù đã quần thảo với địch trên những đỉnh núi cao liên tục hầu như không giây phút ngừng nghỉ. Miền rừng núi trùng điệp, hiểm trở, và cao chất ngất không làm sờn lòng chiến đấu của họ.
Từ chân núi nhìn lên đỉnh cao vời vợi, người lính Nhảy Dù nghĩ đến sự tiếp vận khó khăn.
Một bịch gạo, một băng đạn, được chuyển vận thật là cả một vấn đề, thật gay go, gian nan, và khổ cực (phải dùng dây kéo lên).
Nhất là nước đâu để có thể nấu ăn trên những rặng núi cao ngất từng mây.
Năm 1973, sau khi Hiệp Định Đình Chiến được ký kết tại Paris, chiến cuộc Việt Nam tạm ngưng.
Hai sư đoàn tổng trừ bị (Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến) vẫn còn lưu giữ tại Quân Khu 1.
Lấy Quốc Lộ 1 làm ranh giới, Sư Đoàn Nhảy Dù trấn giữ phía Tây, dọc theo hành lang dãy Trường Sơn, và trách nhiệm luôn phần bảo vệ an ninh Quốc Lộ 1, từ cây số 17 ra tới bờ sông Thạch Hãn (ở tỉnh Quảng Trị).
Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) trấn giữ phía Đông từ Quốc Lộ 1 ra đến bờ biển, đến tận Cổ Thành Quảng Trị ở phía Bắc.
Các đơn vị thuộc Sư Đoàn Nhảy Dù chiếm những cao địa, tiến sâu vào dãy Trường Sơn gần các căn cứ :
- Ann (Động Ông Đô)
-Barbara (đã giành lại được trong cuộc tổng phản công tái chiếm Quảng Trị). [b][size=4][color=black][i]
Đây là 2 căn cứ chiến thuật chế ngự toàn vùng hành quân
Từ Nam cây số 17 (căn cứ Hiệp Khánh, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù) là trách nhiệm của các đơn vị cơ hữu thuộc :
- Quân Đoàn 1.
- Sư Đoàn 1 Bộ Binh trấn đóng ở phía Bắc đèo Hải Vân. Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 22 Bộ Binh.
Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Phía Nam là trách nhiệm của Sư Đoàn 3 và Sư Đoàn 22 Bộ Binh.
Cả hai khu vực Bắc và Nam đèo Hải Vân đều có các đơn vị Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, và Nghĩa Quân trấn giữ.
Đối đầu với Sư Đoàn Nhảy Dù là :
- Sư Đoàn 325 Trị Thiên của Bắc Việt.
Tuy danh xưng là Sư Đoàn Trị Thiên, nhưng thực ra bộ đội của sư đoàn này rất trẻ và nói toàn giọng Bắc.
Tình hình tổng quát tại Quân Khu 1 lúc này tương đối yên tĩnh.
Vào những tháng cuối năm 1974 , sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, Bắc Việt không ngần ngại vi phạm Hiệp Định Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính miền Nam bằng võ lực.
Qua các cuộc trắc nghiệm xem phản ứng của Hoa Kỳ bằng cách vi phạm Hiệp Ước , họ mở cuộc tấn công vào tỉnh Phước Long cuối năm 1974, và một số thị trấn khác thuộc Quân Khu 3.
Thấy Hoa Kỳ không phản ứng gì nhiều, Cộng Sản Bắc Việt bắt đầu tung các đơn vị chủ lực vào cuộc xâm lược Miền Nam Việt Nam.
Bộ đội, pháo binh, cơ giới của họ ngang nhiên di chuyển hàng hàng lớp lớp giữa ban ngày, không cần ngụy trang ẩn nấp như xưa.
Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị tổng trừ bị thiện chiến.
Hai sư đoàn 304 và 324 Bắc Việt, cùng các trung đoàn pháo, chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Đức thuộc tỉnh Quảng Nam.
Là một điểm chiến lược vì địa thế núi rừng hiểm trở dễ thủ khó công .
Thường Đức ở phía Tây Nam Đà Nẵng khoảng 50 cây số, và phía Tây giáp với Lào, nơi có đường mòn Hồ Chí Minh dùng để chuyển vận quân dụng tiếp tế cho mặt trần Thường Đức này.
Trong vòng 2 năm, Bắc Việt đã không ngừng tu bổ đường mòn Hồ Chí Minh và biến thành hệ thống tiếp vận này thành một "xa lộ không đèn."
Mặt đường rộng hơn 10 thước đủ cho xe xận tải di chuyển cả hai chiều.
Ngoài ra Cộng quân còn lập hệ thống dẫn dầu từ Bắc vào Nam, đi đến tận thị xã Lộc Ninh (ở tỉnh Bình Long).
Họ cũng tăng cường việc chuyển vận bộ đội chính qui, vũ khí, và chiến cụ vào miền Nam gấp nhiều lần so với lúc trước.
Tình hình Quân Khu 1 đổi khác ngay vào cuối năm 1974. Áp lực địch gia tăng mạnh mẽ ở phía Nam đèo Hải Vân.
Comment