Hy vọng những từ ngữ tiếng Anh này giúp chùng ta tìm hiểu thêm về bài báo hay tài liệu
CN
Financial repression (Áp chế tài chính)
Áp chế tài chính là những biện pháp được các chính phủ sử dụng để nâng cao ngân quỹ hoặc giảm nợ. Các biện pháp này tập trung vào việc giữ tỉ lệ lãi suất thấp hơn tỉ lệ lạm phát (tức lãi suất thực âm), một hình thức “đánh thuế” lên người tiết kiệm và chuyển lợi ích từ người cho vay sang người đi vay. Việc giữ lãi suất thực âm giúp các chính phủ dễ dàng phát hành trái phiếu, qua đó tạo được nguồn vốn cho ngân sách với chi phí rẻ hơn (do lãi suất thực âm) so với khi không có biện pháp áp chế tài chính.
Sterilization (Vô hiệu hóa)
Vô hiệu hóa (sterilization) trong tài chính là việc mua hoặc bán ngoại tệ bởi một ngân hàng trung ương nhằm tác động lên tỉ giá hối đoái của đồng nội tệ mà không làm ảnh hưởng đến lượng cung tiền cơ sở.
Ví dụ, khi Fed lo ngại về sự xuống giá của đồng đô la so với đồng Euro thì nó sẽ bán một lượng trái phiếu định giá bằng đồng Euro trị giá 10 tỉ Euro và thu về 14 tỉ đô la từ giao dịch này. Việc 14 tỉ đô la được rút ra khỏi hệ thống ngân hàng vào kho của Fed sẽ ảnh hưởng tới lượng cung đồng đô la trên thị trường và lãi suất qua đêm liên ngân hàng tại Fed. Vì vậy Fed sẽ thực hiện tiếp giao dịch thứ hai qua thị trường mở bằng cách mua vào lượng trái phiếu kho bạc Mỹ giá trị 14 tỉ đô la, qua đó bơm lại 14 tỉ đô la vào hệ thống ngân hàng thương mại. Giao dịch này giúp “vô hiệu hóa” tác động của việc bán số trái phiếu định giá bằng đồng Euro lên lượng cung tiền cơ sở.
Phân biệt “bail out” và “bail in”
Mặc dù “bail out” và “bail in” đều được dùng để chỉ việc cung cấp các khoản vay “cấp cứu” nhằm cung cấp thanh khoản và giúp các con nợ thoát khỏi cảnh vỡ nợ, nhưng trong khi “bail out” được thực hiện thông qua các khoản vay mới từ các chủ nợ bên ngoài (thường là chính phủ hoặc các thể chế tài chính quốc tế) và được tài trợ chủ yếu bởi tiền thuế của người dân, thì “bail in” là biện pháp giải cứu mà qua đó các chủ nợ (thường là tư nhân) giúp xóa bỏ một phần các khoản nợ cũ của con nợ.
Ngày nay xu hướng là các giải pháp “bail out” và “bail in” sẽ đi kèm với nhau.
Thanh gươm Damocles (Sword of Damocles)
Thanh gươm Damocles là một hình ảnh ẩn dụ để chỉ những mối nguy hiểm rình rập mà những người đứng ở đỉnh cao quyền lực luôn đối mặt, điều những người ngoài có thể không nhận ra.
Hình ảnh ẩn dụ này bắt nguồn từ câu chuyện của nhà sử học Hy Lạp cổ đại Timaeus khi kể về giai đoạn trị vì của vua Dionysius xứ Syracuse, nơi Damocles là một quần thần. Trong câu chuyện, Damocles nịnh vua Dionysius, nói rằng ông là một nhà vua giàu có, vĩ đại và đầy quyền lực, được bao quanh bởi những điều vinh quang. Dionysius liền đề nghị đổi vị trí của mình với Damocles để Damocles có thể tự mình cảm nhận được sự giàu có đó. Damocles nhanh nhảu chấp nhận đề nghị của vua.
Damocles ngồi lên ngai vang, được bao quanh bởi bao điều xa hoa, nhưng Dionysius đã bí mật cho treo một thanh gươm bằng chỉ một sợi lông đuôi ngựa phía trên ngai vàng. Damocles cuối cùng xin nhà vua cho phép rời ngai vàng và không muốn nhận sự giàu có đó nữa, sau khi nhận ra rằng đi kèm với sự giàu có và quyền lực luôn là sự nguy hiểm lớn và trách nhiệm nặng nề
Phân biệt Rogue states với Pariah states
“Rogue states” (quốc gia bất hảo) là từ mà Hoa Kỳ dùng để chỉ các quốc gia gây nên các mối đe dọa cho hòa bình thế giới. Thông thường đây là các quốc gia có các chế độ độc tài, vi phạm nhân quyền nghiêm trọng, tài trợ khủng bố và tham gia phổ biến các vũ khí giết người hàng loạt. Ví dụ hiện nay Mỹ coi Syria, Bắc Triều Tiên hay Iran là các “rogue states”.
Trong khi đó “Pariah states” (tạm dịch: quốc gia bị bài xích) thường để chỉ các quốc gia bị bao vây, cấm vận kinh tế, cô lập về ngoại giao, nằm ngoài rìa xã hội quốc tế. Các quốc gia này mặc dù vậy không gây ra các mối đe dọa an ninh bên ngoài biên giới của mình. Myanmar mấy năm trước đây hay Việt Nam trong những năm 1980 là những ví dụ về pariah states.
Proxy war (chiến tranh ủy nhiệm)
Chiến tranh ủy nhiệm (hay chiến tranh qua tay người khác) là từ chỉ các cuộc chiến tranh được tiến hành gián tiếp giữa các cường quốc đối địch thông qua các lực lượng thứ ba thay mặt họ. Các cuộc chiến tranh này thường diễn ra trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên nhiều cuộc chiến tranh được coi là chiến tranh ủy nhiệm nhưng bản thân các bên tham gia trực tiếp cũng có những động cơ riêng của họ chứ không đơn thuần đại diện cho lợi ích của các cường quốc.
Phân biệt Bill và Act
Trong một số hệ thống pháp luật, đặc biệt là Mỹ, ‘Bill’ chỉ một ‘dự luật’ được đưa ra thảo luận tại quốc hội và chưa có giá trị pháp lý, còn ‘Act’ là một “đạo luật” hoặc ‘luật’, tức là dự luật đã được quốc hội thông qua và tổng thống ký ban hành thành luật, đã có hiệu lực pháp lý.
Trong bối cảnh Việt Nam, ‘dự luật’ và ‘luật’ thường được dịch lần lượt sang tiếng Anh là ‘draft law’ và ‘law’.
(Còn tiếp)
By NCQT
Comment