VIỆTNAM : HIỆP ĐỊNH PARIS 1973 CHỈ LÀ MỘT CUỘC HƯU CHIẾN TẠM THỜI !
Sau khi ký kết Hiệp định Paris giữa Mỹ và Bắc Việt tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế, đại lộ Kleber, Paris, Pháp, ngày 23/01/2973.
Từ trái qua : Bộ trưởng Xuân Thủy, cố vấn Lê Đức Thọ, cố vấn Henry Kissinger, thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch. AP
Ngày 27/01/1973, tại Paris, Pháp, Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã ký hiệp định ngừng bắn, tái lập hòa bình tại Việt Nam – Hiệp định Paris.
Đây là động thái ngoại giao cuối cùng kết thúc bốn năm đàm phán và các hàng chục cuộc gặp bí mật, được tiến hành từ ngày 13/05/1968, giữa cố vấn đặc biệt của chính quyền Bắc Việt Nam Lê Đức Thọ và cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Henri Kissinger.
Chấm dứt chiến tranh về mặt « lý thuyết »
Thế nhưng, con đường tái lập hòa bình tại Việt Nam còn đầy chông gai.
Sau khi ký Hiệp định Paris, chiến sự vẫn nổ ra gần như hàng ngày giữa lực lượng Cộng Sản và quân đội Sài Gòn (Việt Nam Cộng Hòa).
Và hai bên tham chiến chủ chốt trong cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm trời này – Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam - cũng biết điều đó.
Thực vậy, Hiệp định Paris bao gồm những vấn đề chính như :
- Thỏa thuận ngừng bắn
- Giải pháp chính trị ôn hòa cho phép tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục nắm quyền, thừa nhận tính chính đáng của Chính Phủ Cách Mạng (Việt Cộng)
- Quân đội Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, trao trả tù binh, thế nhưng không có một câu chữ, một điều khoản nào liên quan đến việc rút các lực lượng quân sự của Bắc Việt ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Thế nhưng, Washington và Bắc Việt Nam cần bản Hiệp định này.
Phe cộng sản Việt Nam muốn chấm dứt sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam và tiến hành thống nhất đất nước, vốn bị chia cắt từ năm 1954 sau Hiệp định Geneve.
Còn phía Mỹ thì muốn rút quân, đón nhận các tù binh.
Theo một số nhà phân tích, khi ký Hiệp định Paris, Mỹ hy vọng có được một « thời gian hợp lý » kể từ khi lính Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn.
https://www.youtube.com/watch?v=VVyLIJZrfAQ
ĐÀM PHÁN SAU CÁC CHIẾN DỊCH QUÂN SỰ
Hoa Kỳ và Bắc Việt bắt đầu đàm phán trong bối cảnh lực lượng Cộng Sản Việt Nam đạt được một thắng lợi ngoại giao to lớn với chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân 1968, cho dù bị thiệt hại nặng về nhân mạng.
Theo số liệu của Bắc Việt, khoảng 80 ngàn chiến binh hầu như đồng thời phát động tấn công, nổi dậy ở hơn 100 thành phố, địa phương ở miền Nam Việt Nam, thậm chí tấn công cả vào đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn.
Chính quyền của tổng thống Richard Nixon không thể giảm nhẹ sức kháng cự của lực lượng Cộng Sản.
Tại Mỹ, có nhiều tiếng nói đòi rút binh sĩ về nước.
Các cuộc đàm phán tại Paris bao gồm hai loại cuộc họp khác nhau :
Một bên là các cuộc gặp chính thức tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, đại lộ Kleber, Paris, Pháp và bên kia các cuộc đàm phán bí mật giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại nhiều nơi ở ngoại ô Paris, như:
- Choisy-le-Roi
- Gif-sur-Yvette
- Saint-Nom-la-Bretèche…
Có hai giai đoạn đàm phán.
- Giai đoạn đầu, từ tháng 05 đến tháng 10/1968, chỉ có các cuộc gặp song phương giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, chủ yếu đề cập đến việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.
Giai đoạn hai, từ 01/1969 đến 27/01/1973, bao gồm bốn bên :
Ngoài đại diện Hoa Kỳ, Bắc Việt Nam, còn có đại diện chính quyền Sài Gòn và Chính Phủ Cách Mạng (Việt Cộng), tập trung đàm phán về việc Mỹ rút quân và tình hình chính trị miền Nam Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Nixon và cố vấn Kissinger trong một thời gian dài đã nghĩ rằng :
- Với sức mạnh ưu thế về quân sự, họ có thể gây sức ép với Bắc Việt để đạt được một hiệp định hòa bình theo ý muốn.
Hầu như cứ mỗi lần đàm phán rơi vào bế tắc, Kissinger lại chủ trương leo thang vũ lực :
- Tháng 04/1970, lực lượng Mỹ và binh sĩ Sài Gòn tấn công vào Cam Bốt với mục đích ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh, con đường tiếp viện chủ chốt của Bắc Việt Nam cho Việt Cộng ở miền Nam, đồng thời, phá hủy các cứ địa của Việt Cộng đặt trên đất Cam Bốt .
Sau khi ký kết Hiệp định Paris giữa Mỹ và Bắc Việt tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế, đại lộ Kleber, Paris, Pháp, ngày 23/01/2973.
Từ trái qua : Bộ trưởng Xuân Thủy, cố vấn Lê Đức Thọ, cố vấn Henry Kissinger, thứ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch. AP
Ngày 27/01/1973, tại Paris, Pháp, Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam đã ký hiệp định ngừng bắn, tái lập hòa bình tại Việt Nam – Hiệp định Paris.
Đây là động thái ngoại giao cuối cùng kết thúc bốn năm đàm phán và các hàng chục cuộc gặp bí mật, được tiến hành từ ngày 13/05/1968, giữa cố vấn đặc biệt của chính quyền Bắc Việt Nam Lê Đức Thọ và cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ Henri Kissinger.
Chấm dứt chiến tranh về mặt « lý thuyết »
Thế nhưng, con đường tái lập hòa bình tại Việt Nam còn đầy chông gai.
Sau khi ký Hiệp định Paris, chiến sự vẫn nổ ra gần như hàng ngày giữa lực lượng Cộng Sản và quân đội Sài Gòn (Việt Nam Cộng Hòa).
Và hai bên tham chiến chủ chốt trong cuộc chiến tranh kéo dài nhiều năm trời này – Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam - cũng biết điều đó.
Thực vậy, Hiệp định Paris bao gồm những vấn đề chính như :
- Thỏa thuận ngừng bắn
- Giải pháp chính trị ôn hòa cho phép tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục nắm quyền, thừa nhận tính chính đáng của Chính Phủ Cách Mạng (Việt Cộng)
- Quân đội Mỹ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, trao trả tù binh, thế nhưng không có một câu chữ, một điều khoản nào liên quan đến việc rút các lực lượng quân sự của Bắc Việt ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Thế nhưng, Washington và Bắc Việt Nam cần bản Hiệp định này.
Phe cộng sản Việt Nam muốn chấm dứt sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam và tiến hành thống nhất đất nước, vốn bị chia cắt từ năm 1954 sau Hiệp định Geneve.
Còn phía Mỹ thì muốn rút quân, đón nhận các tù binh.
Theo một số nhà phân tích, khi ký Hiệp định Paris, Mỹ hy vọng có được một « thời gian hợp lý » kể từ khi lính Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn.
https://www.youtube.com/watch?v=VVyLIJZrfAQ
ĐÀM PHÁN SAU CÁC CHIẾN DỊCH QUÂN SỰ
Hoa Kỳ và Bắc Việt bắt đầu đàm phán trong bối cảnh lực lượng Cộng Sản Việt Nam đạt được một thắng lợi ngoại giao to lớn với chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân 1968, cho dù bị thiệt hại nặng về nhân mạng.
Theo số liệu của Bắc Việt, khoảng 80 ngàn chiến binh hầu như đồng thời phát động tấn công, nổi dậy ở hơn 100 thành phố, địa phương ở miền Nam Việt Nam, thậm chí tấn công cả vào đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn.
Chính quyền của tổng thống Richard Nixon không thể giảm nhẹ sức kháng cự của lực lượng Cộng Sản.
Tại Mỹ, có nhiều tiếng nói đòi rút binh sĩ về nước.
Các cuộc đàm phán tại Paris bao gồm hai loại cuộc họp khác nhau :
Một bên là các cuộc gặp chính thức tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, đại lộ Kleber, Paris, Pháp và bên kia các cuộc đàm phán bí mật giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại nhiều nơi ở ngoại ô Paris, như:
- Choisy-le-Roi
- Gif-sur-Yvette
- Saint-Nom-la-Bretèche…
Có hai giai đoạn đàm phán.
- Giai đoạn đầu, từ tháng 05 đến tháng 10/1968, chỉ có các cuộc gặp song phương giữa Lê Đức Thọ và Henry Kissinger, chủ yếu đề cập đến việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam.
Giai đoạn hai, từ 01/1969 đến 27/01/1973, bao gồm bốn bên :
Ngoài đại diện Hoa Kỳ, Bắc Việt Nam, còn có đại diện chính quyền Sài Gòn và Chính Phủ Cách Mạng (Việt Cộng), tập trung đàm phán về việc Mỹ rút quân và tình hình chính trị miền Nam Việt Nam.
Tổng thống Mỹ Nixon và cố vấn Kissinger trong một thời gian dài đã nghĩ rằng :
- Với sức mạnh ưu thế về quân sự, họ có thể gây sức ép với Bắc Việt để đạt được một hiệp định hòa bình theo ý muốn.
Hầu như cứ mỗi lần đàm phán rơi vào bế tắc, Kissinger lại chủ trương leo thang vũ lực :
- Tháng 04/1970, lực lượng Mỹ và binh sĩ Sài Gòn tấn công vào Cam Bốt với mục đích ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh, con đường tiếp viện chủ chốt của Bắc Việt Nam cho Việt Cộng ở miền Nam, đồng thời, phá hủy các cứ địa của Việt Cộng đặt trên đất Cam Bốt .
Comment