Announcement

Collapse
No announcement yet.

Lời mời gọi cùng viết về “Ký ức 30 tháng 4”

Collapse
This is a sticky topic.
X
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #136
    Tiếp theo tập truyện " Tôi phải sống " - Linh mục Lê Hữu Lễ


    TRỞ LẠI TRẦN GIAN



    Trên đường xuôi về trại Thanh Cẩm, chúng tôi dừng chân một đêm tại trại Văn Hòa ở ngoại ô Hà Nội.

    Trại này xây dựng chưa xong, còn ngổn ngang vật liệu xây cất, gặp đêm đó mưa to nên trong trại lầy lội bùn sình dơ bẩn. Chúng tôi ghé vào trại này lúc quá nửa đêm, mệt nhọc, đói khát và bẩn thỉu.

    Có nhiều người buồn đi đại tiện đến mức không còn chịu đựng nổi phải la lối trên xe và yêu cầu dừng lại để giải quyết nhu cầu tự nhiên này, nhưng vì lý do an ninh, cán bộ áp tải tù không cho xe dừng lại ban đêm.

    Vì trại chưa có cầu tiêu nên cả nhóm chúng tôi buộc lòng phải giải quyết vệ sinh ngay trong sàn nhà lầy lội bùn sình nơi chúng tôi tạm nghỉ qua đêm.



    Click image for larger version  Name:	1cc4f9ec30f94dc791f2c704aa5274c059cb90a90ca26ab54c2d009cf6371048.jpg Views:	1 Size:	32.4 KB ID:	163042



    Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm 1978, nhóm “48 Quyết Tiến” chúng tôi lang thang lếch thếch, tay xách, nách mang, bước vào cổng trại Thanh Cẩm dưới cơn mưa tầm tã để bắt đầu một giai đoạn mới trong kiếp sống tù đày.

    Chưa ai biết những gì đang chờ đợi trước mắt, nhưng anh em chúng tôi vui vẻ bảo nhau :

    - “ Bất cứ kiểu gì cũng còn tốt hơn Cổng Trời ”.

    Vừa bước vô tới hội trường giữa sân trại, một cảnh tượng lạ lùng đập vào mắt khiến tôi ngạc nhiên và vẫn còn nhớ mãi, đó là hình ảnh của cán bộ trực trại.

    Lão này độ ngoài 50 tuổi, người ngợm trông bẩn thỉu và bèo nhèo như một cái nùi giẻ, loại nùi giẻ của thợ máy xe.

    “Cái nùi giẻ” đó đang say rượu, chân nam đá chân chiêu, tay cầm gậy trúc cao quá đầu, múa may theo từng nhịp và la hét quát tháo ầm ĩ.

    Rõ ràng là ông ta muốn dằn mặt bọn "lính mới" chúng tôi.

    Cái hình thù dị hợm này xem chẳng giống ai.

    Chân mang ủng cao gần tới đầu gối, hai ống quần ka-ki vàng của công-an xắn một cách vô trật tự lên tới bẹn để lộ một khúc chân đen đen mốc mốc trông đến khiếp !

    Nhìn lão cán bộ Thượng úy trực trại dị hợm này, tôi lại liên tưởng tới bức tranh biếm họa vẽ hình Táo Quân . Một Táo Quân đang say rượu !



    Click image for larger version  Name:	12191512_414535378739427_9074842102614630017_n.jpg Views:	1 Size:	51.3 KB ID:	163041


    Trước mặt và chạy quanh ông ta, là hai anh tù mặc đồng phục màu xanh, chân mang dép râu, lăng xăng khua khoắng như những con rối để dẫn chúng tôi vào chỗ phải vào.

    Tôi biết ngay đây là hai anh trật tự , vì trên trại Cổng Trời cũng có một anh tù hình sự làm trật tự.

    Nhiệm vụ của anh là giúp cán bộ khám xét khi nhóm 20 anh em chúng tôi trong đội trừng giới từ trại Nam Hà mới chuyển lên đúng vào ngày lễ Giáng Sinh năm 1977.

    Anh ta làm việc một cánh từ tốn và chậm rãi, chứ không quá lăng xăng như hai anh trật tự này.


    TỔ CHỨC TRONG TRẠI


    Các trại tù thuộc Bộ Nội Vụ, do công-an quản lý được tổ chức như sau :

    Đứng đầu trại là một Ban Giám Thị gồm :

    - Trại trưởng, trại phó và các ban, ngành lo về các phần vụ chuyên môn như :

    - Ban Giáo Dục

    - Ban An Ninh

    - Ban Hồ Sơ

    - Ban Tài Chánh

    - Ban Cấp Dưỡng v.v...

    Các tù nhân trong trại được phân làm từng đội, mỗi đội do một tù nhân làm đội trưởng và một cán bộ quản giáo trông coi.

    Đội trưởng do Ban Giám Thị trại chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh.

    Mỗi khi các tù nhân được di chuyển ra khỏi trại, như đi lao động chẳng hạn, phải có một hoặc hai cán bộ võ trang vác súng dài đi theo canh giữ.

    Ban đêm, các cán bộ võ trang này thay phiên nhau tuần tra trong và ngoài vòng rào của trại để ngăn ngừa tù nhân trốn trại.

    Ban ngày các tù nhân thuộc trách nhiệm của ban quản giáo, và ban đêm, sau khi điểm danh vào buồng, họ thuộc trách nhiệm của cán bộ võ trang.

    Trực tiếp lo về sinh hoạt và đời sống của tù nhân có :

    - Ban Trực Trại, đứng đầu là một cán bộ Trực Trại.

    Để điều hành công việc trong trại, cán bộ trực trại thường chọn một số tù nhân được trại tín nhiệm để phụ trách các công tác như :

    - Trật tự, y tế và văn hóa.

    Nhóm này còn được gọi là Ban Thi Đua.

    Các chức vụ trong Ban Thi Đua này do Ban Giám Thị chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh.

    Trong các công tác kể trên, công tác trật tự được coi là quan trọng nhất, do một anh Trật tự điều hành.

    Anh này có quyền hành nhất trong trại, chỉ sau cán bộ mà thôi.



    Click image for larger version

Name:	18010604_1148392998602668_2952460773426984415_n.jpg
Views:	73
Size:	22.6 KB
ID:	163044



    Muốn được làm trật tự thường phải có nhiều công trạng với trại, được trại tín nhiệm. Thêm vào đó cũng còn phải có sức mạnh nữa.

    Ngoài nhiệm vụ trông coi trật tự trong trại, anh trật tự còn phụ giúp cán bộ trực trại coi khu kiên giam và khu kỷ luật, như :

    - Khóa cùm các tù nhân bị phạt kỷ luật vào buổi tối và tháo ra vào buổi sáng.

    Trật tự cũng có nhiệm vụ gánh khẩu phần ăn lên phát cho các tù nhân bị kiên giam và kỷ luật mỗi ngày hai lần, trưa và chiều.

    Đồng thời, trật tự cũng đi điểm danh với cán bộ trực trại vào buổi tối, sau đó khóa các buồng và sáng ra mở cửa buồng.

    Mỗi lần trật tự làm công tác trên khu kiên giam hay khu kỷ luật thường có cán bộ đi theo, nhưng cũng rất nhiều khi trật tự chỉ đi một mình, lúc đó vai trò của anh không khác gì của một cán bộ.

    Ở một vài trại, các anh trong Ban Thi Đua có phòng riêng, ban đêm không ngủ chung với các tù nhân khác.

    Cũng có những người tuy không có “công trạng” nhiều với trại, nhưng nhờ đút lót tiền của cho cán bộ trực trại và cán bộ an ninh nên được cho làm trật tự.

    Chức trật tự thuộc diện “sĩ quan” so với đám tù.

    Họ không phải đi lao động vất vả như các anh em khác.

    Họ có quyền hành và dĩ nhiên là được tự do hơn.

    Cũng có trường hợp được chọn nhờ to con lớn xác và có tướng mạo trông “ngầu” !

    Đây cũng là một yếu tố quan trọng để được chọn vì làm trật tự ngầm hiểu là giữ vai trò quả đấm của trại.

    Comment


    • Font Size
      #137


      TRỞ LẠI TRẦN GIAN

      Các trại tù thuộc Bộ Nội Vụ, do công-an quản lý được tổ chức như sau :

      Đứng đầu trại là một Ban Giám Thị gồm :

      - Trại trưởng, trại phó và các ban, ngành lo về các phần vụ chuyên môn như :

      - Ban Giáo Dục

      - Ban An Ninh

      - Ban Hồ Sơ

      - Ban Tài Chánh

      -Ban Cấp Dưỡng v.v...

      Các tù nhân trong trại được phân làm từng đội, mỗi đội do một tù nhân làm đội trưởng và một cán bộ quản giáo trông coi.

      Đội trưởng do Ban Giám Thị trại chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh.

      Mỗi khi các tù nhân được di chuyển ra khỏi trại, như đi lao động chẳng hạn, phải có một hoặc hai cán bộ võ trang vác súng dài đi theo canh giữ.

      Ban đêm, các cán bộ võ trang này thay phiên nhau tuần tra trong và ngoài vòng rào của trại để ngăn ngừa tù nhân trốn trại.

      Ban ngày các tù nhân thuộc trách nhiệm của ban quản giáo, và ban đêm, sau khi điểm danh vào buồng, họ thuộc trách nhiệm của cán bộ võ trang.

      Trực tiếp lo về sinh hoạt và đời sống của tù nhân có :

      - Ban Trực Trại, đứng đầu là một cán bộ Trực Trại.

      Để điều hành công việc trong trại, cán bộ trực trại thường chọn một số tù nhân được trại tín nhiệm để phụ trách các công tác như trật tự, y tế và văn hóa. Nhóm này còn được gọi là Ban Thi Đua.

      Các chức vụ trong Ban Thi Đua này do Ban Giám Thị chỉ định theo đề nghị của Ban An Ninh.

      Trong các công tác kể trên, công tác trật tự được coi là quan trọng nhất, do một anh Trật tự điều hành.

      Anh này có quyền hành nhất trong trại, chỉ sau cán bộ mà thôi.

      Muốn được làm trật tự thường phải có nhiều công trạng với trại, được trại tín nhiệm. Thêm vào đó cũng còn phải có sức mạnh nữa.

      Ngoài nhiệm vụ trông coi trật tự trong trại, anh trật tự còn phụ giúp cán bộ trực trại coi khu kiên giam và khu kỷ luật, như khóa cùm các tù nhân bị phạt kỷ luật vào buổi tối và tháo ra vào buổi sáng.

      Trật tự cũng có nhiệm vụ gánh khẩu phần ăn lên phát cho các tù nhân bị kiên giam và kỷ luật mỗi ngày hai lần, trưa và chiều.

      Đồng thời, trật tự cũng đi điểm danh với cán bộ trực trại vào buổi tối, sau đó khóa các buồng và sáng ra mở cửa buồng.

      Mỗi lần trật tự làm công tác trên khu kiên giam hay khu kỷ luật thường có cán bộ đi theo, nhưng cũng rất nhiều khi trật tự chỉ đi một mình, lúc đó vai trò của anh không khác gì của một cán bộ.

      Ở một vài trại, các anh trong Ban Thi Đua có phòng riêng, ban đêm không ngủ chung với các tù nhân khác.

      Cũng có những người tuy không có “công trạng” nhiều với trại, nhưng nhờ đút lót tiền của cho cán bộ trực trại và cán bộ an ninh nên được cho làm trật tự.

      Chức trật tự thuộc diện “sĩ quan” so với đám tù.

      Họ không phải đi lao động vất vả như các anh em khác.

      Họ có quyền hành và dĩ nhiên là được tự do hơn. Cũng có trường hợp được chọn nhờ to con lớn xác và có tướng mạo trông “ngầu” !

      Đây cũng là một yếu tố quan trọng để được chọn làm trật tự ngầm hiểu là giữ vai trò quả đấm của trại.


      Click image for larger version  Name:	347554914_1005524997131759_1493271865674134601_n.jpg Views:	1 Size:	13.4 KB ID:	166936


      HAI ANH TRẬT TỰ


      Hai anh trật tự trại này, một anh độ ngoài 40 trông bộ dạng lầm lì và ít nói.

      Anh kia trẻ khoảng chừng 30 tuổi, lăng xăng hơn .

      Anh này mập tròn và béo tốt nhưng hơi bị tật. Da mặt anh bóng láng, khác hẳn với các thân hình xanh xao gầy còm của nhóm anh em chúng tôi vừa mới nhập trại.

      Anh trẻ này đang cố gắng làm mặt “ngầu” để thị uy với các lính mới trong một cung cách cố gắng thấy rõ.

      Miệng anh lúc nào cũng la hét, tay anh chỉ hết bên nọ đến bên kia, nhưng không bao giờ nhìn thẳng vào mặt ai trong bọn chúng tôi.

      Nhóm chúng tôi di chuyển rời rạc. Những người còn khỏe đi nhanh tới chỗ tập trung ngay trong hội trường nằm giữa sân trại, còn những người ốm yếu bệnh tật lò mò theo sau.



      Click image for larger version

Name:	Một lớp học tập cải tạo của những quân nhân chế độ cũ do chính phủ cách mạng lâm thời CHMNVN tổ chức tại Vĩnh Long, ngày 1-6-1975_result.jpg
Views:	56
Size:	52.5 KB
ID:	166938


      Tôi nhớ lúc đó anh Nguyễn Sỹ Thuyên gần kiệt lực, vừa tới nơi tập trung đã vất phịch cái bao áo quần và chăn màn bẩn thỉu xuống nền hội trường, rồi nằm ngửa người trên đó.

      Tôi cũng quá mệt nên tới ngồi cạnh bên anh.

      Sau một lúc, anh Thuyên lấy lại được bình tĩnh và dùng cùi chỏ thúc nhẹ tôi, hất mắt hướng về cán bộ trực trại và ghé bên tai tôi nói nhỏ :

      - “Mẹ ! Cái thằng này trông như ở lỗ cống mới móc lên !"

      Tôi chưa kịp ra dấu phát biểu đồng tình thì giật mình vì một giọng quát từ sau lưng :

      - “ Còn hai anh này ! Không lo thu xếp ‘ nội vụ’ còn ngồi nói chuyện chi đây ? Bộ muốn chống đối hả ? ”

      Tôi quay lại và chạm ngay cặp mắt trắng dã của tên trật tự trẻ mà từ lúc đầu tôi đã gườm hắn.

      Tôi đứng dậy bỏ đi vì biết rằng đây không phải là chỗ tốt để bày tỏ một thái độ nào khác hơn, vừa đi tôi vừa nghĩ bụng là mình phải cẩn thận với tên này.


      Click image for larger version

Name:	1513330_241566142670156_543189758_n_result.jpg
Views:	58
Size:	19.4 KB
ID:	166937


      Trong giờ điểm danh chiều hôm sau, tôi và một số anh em trong nhóm 48 Quyết Tiến bị đưa lên nhốt trên khu kiên giam, số còn lại ở dưới “làng” làm thành một đội mới là Đội 16 và anh Nguyễn Văn Phước được chỉ định làm đội trưởng.

      Anh Phước là một Thiếu tá Hải quân, từ đảo Guam trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín. Khi về tới Việt Nam, anh bị đưa thẳng vào tù, bị đày ra Bắc và lên “Cổng Trời” với chúng tôi.


      Click image for larger version

Name:	Toquocvn_23_min_CXSM.jpg
Views:	55
Size:	166.8 KB
ID:	166939


      Kiên giam trại Thanh Cẩm là một khu nhà hình vuông xây cất rất kiên cố, được chia thành bốn buồng nằm bốn góc như hình chiếc bánh chưng được cắt đều làm tư.

      Chúng tôi gọi khu này là Nhà Bằng vì có mái bằng đúc bằng xi-măng.

      Mỗi buồng có hai cửa sổ khá rộng được chấn bằng những song sắt to gần bằng cổ tay.

      Trong buồng có bệ nằm bằng xi-măng cao khoảng 80 phân và một lối đi từ cánh cửa sắt tới vách ngăn khu vực cầu tiêu.

      Mỗi buồng chứa được từ năm tới bảy người nằm theo kiểu xếp cá hộp.

      Ban đêm thường là có một người xuống nằm ngủ dưới lối đi vì bệ nằm quá chật.

      Khu kiên giam được dùng để giam riêng các tù nhân bị coi là nguy hiểm. Họ phải sống cách ly với các tù nhân khác.

      Tù nhân ở khu này tuy không bị cùm chân nhưng suốt ngày đêm bị khóa trong buồng, trừ hai bữa ăn, trưa và chiều thì được mở cửa để ra ngoài lấy thức ăn, nước uống và làm vệ sinh, mỗi lần khoảng mười lăm phút.

      Thông thường, mỗi tuần một lần, tù nhân ở Nhà Bằng được đi tắm giặt dưới sông Mã trước cửa trại.

      Các tù nhân ở kiên giam và kỷ luật thường là đi tắm chung và bị canh gác rất cẩn thận.

      Khi nào cán bộ võ trang bận, hoặc vì lý do gì khác thì ba tuần hoặc một tháng mới được đi tắm một lần.


      Click image for larger version

Name:	Screenshot_2019-09-27 Re Education Camp Vietnam Pictures and Photos - Getty Images444_result.png
Views:	45
Size:	397.7 KB
ID:	166940

      Comment


      • Font Size
        #138


        TRẠI TÙ THANH CẨM



        Tôi bị đưa ngay vào kiên giam vì bị xếp vào loại tù nguy hiểm.

        Nhờ một số tù nhân đang bị giam ở đây, vài ngày sau chúng tôi nắm vững vị trí và tình hình của trại này.

        Trại Thanh Cẩm lúc đó chia làm hai K (Khu).


        Chúng tôi ở K1 gồm toàn chính trị miền Nam khoảng 400 người, đa số là cựu viên chức hành chánh của chế độ miền Nam cũ và một số anh em thuộc tổ chức Phục Quốc hay vượt biên bị bắt.

        Không có thành phần cựu quân nhân trong lúc này . K2 nằm cách K1 khoảng 3 cây số và được dùng để giam tù hình sự.



        Click image for larger version

Name:	Toquocvn_23_min_CXSM.jpg
Views:	51
Size:	166.8 KB
ID:	171162


        Một số anh em tù chính trị từ Long Thành đến đây vào tháng 12 năm 1976 kể lại cho chúng tôi biết là trại này có đến ba K.

        - K1 là phân trại mà chúng tôi đang ở, gồm một nửa là tù chính trị miền Nam và một nửa là tù hình sự.

        Phân trại này trước đây là nhà tranh, có hàng rào tre nhiều lớp bao bọc chung quanh, dùng để giam tù hình sự.

        Sau khi chiếm được miền Nam, Bộ Nội Vụ ra lệnh xây cất gấp những dãy nhà gạch và một vòng tường kiên cố để đón tù chính trị miền Nam, vì tù nhân miền Nam được coi là thành phần nguy hiểm, phải được canh giữ rất cẩn thận.


        Click image for larger version

Name:	trai-cai-tao-75.jpg
Views:	51
Size:	51.9 KB
ID:	171163


        Khi các anh em từ trại Long Thành trong Nam chuyển ra đây thì phía bên phải của trại đã có bốn dãy nhà ngói, còn bên trái là ba căn nhà tranh và một khu nhà kỷ luật xây bằng đá tối om, có lỗ thông hơi rất nhỏ, được dùng để giam những người bị kỷ luật và những người Trung Quốc bị bắt ở vùng biên giới và bị kết tội làm gián điệp.

        Chúng tôi thường gọi khu này là Nhà Đen vì nó tối đen u ám, lại lợp bằng thứ vải nhựa màu đen.

        Khu kiên giam mà chúng tôi đang ở là khu nhà mới xây cất để đón chúng tôi.

        Khu trại K2 nằm về phía Nam khoảng hơn hai cây số và được dùng để giam các tù chính trị miền Bắc , khoảng 160 người, [b][size=4][color=green][i] đa số là giáo dân và tu sĩ Công giáo thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Thái Bình và Nam Định.

        Họ bị bắt từ năm 1970 khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đổ bộ qua Campuchia.

        Hà Nội sợ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
        bất thần đổ bộ ra Bắc, nên cô lập các thành phần mà họ nghi có thể làm nội ứng, tiếp tay cho “giặc”.



        Click image for larger version

Name:	Nỗi-ám-ảnh-và-sợ-hãi-suốt-48-năm-07.05.2023-696x746.jpg
Views:	47
Size:	36.1 KB
ID:	171166


        Thành phần tù chính trị này gồm những chức sắc trong các giáo xứ như :


        - Chánh trương

        - Trùm, trưởng và những người lãnh đạo các đoàn thể như thiếu nhi Thánh Thể, Liên Minh Thánh Tâm hoặc những người phụ trách các công việc phụng vụ trong nhà thờ như ban Khánh Tiết, ban Thánh Ca, ban Giúp Lễ v.v...

        Có một số nhỏ thuộc loại " tu chui " , vì đi tu mà không được công-an cho phép.

        Anh em kể lại rằng :


        - Nhóm này có tinh thần quật cường. Họ sống với nhau rất đoàn kết, đùm bọc và thương yêu nhau.

        Hầu hết tù chính trị miền Bắc không được thân nhân tiếp tế, chỉ sống nhờ khoai sắn của trại và rau cỏ trong rừng. Gia đình họ quá nghèo, không đủ ăn nên không thể tiếp tế được.

        Đến năm 1978
        nhóm này được chuyển đi xây cất trại Thanh Phong thuộc một vùng khác cách đây không xa, cũng ở trong tỉnh Thanh Hóa.

        Khi họ rời trại Thanh Cẩm, thì K2 được phá hủy để trồng hoa mầu.


        Click image for larger version

Name:	Saigon-ngay-30-4_30.04.2023-696x873.jpg
Views:	45
Size:	45.8 KB
ID:	171164


        Khu trại K3 nằm về phía Bắc, cách K1 ba cây số, giam toàn tù hình sự.

        Một số anh em Biệt Kích miền Nam nhảy dù ra Bắc trong các năm 1962 và 1963 cũng bị giam ở đây, nhưng anh em sống tập trung ở một nhà riêng.

        Họ được giao cho phụ trách nhà máy đèn, nhà nấu rượu và một số công việc linh tinh chung cho cả trại.

        Khi K2 bị phá hủy thì K3 trở thành K2.

        Trại Thanh Cẩm nằm trên bờ sông Mã,
        thuộc vùng thượng du của tỉnh Thanh Hóa, cách biên giới Việt-Lào khoảng 30 cây số, ở độ cao hơn mặt biển khoảng 400 thước.

        Trại này nằm ở vị thế hiểm trở, phía trước là sông rộng, chung quanh núi non bao bọc, chỉ có con đường độc đạo ra vào trại. Có mấy làng mạc của người Mường nằm rải rác cách xa trại vài cây số.

        Vị trí địa lý và nhân tình ở đây không thuận lợi cho việc trốn trại.

        Vượt qua núi cao để ra khỏi vùng này rất khó vì đó đây quanh trại là nhà dân. Nếu gặp tù trốn trại, họ sẽ báo cho công-an để được thưởng lương thực hay rượu.

        Từ thị xã Thanh Hóa vào đây chỉ khoảng 80 cây số, nhưng đường núi hiểm trở và lưu thông khó khăn.

        Số tù nhân trốn được ra khỏi trại mà đi thoát rất hiếm, nhưng không phải là không có.

        Đầu năm 1978,
        có một nhóm tù nhân chính trị được chuyển từ trại Quảng Ninh tới, đa số là các bạn trẻ trong tổ chức Phục Quốc và những người vượt biên.

        Họ được gọi chung là “nhóm phản động” .

        Khi tôi đến đây thì trại đang xây thêm phòng giam để nhận thêm một số tù nhân chính trị nữa.

        Nhiều nơi đá gạch còn ngổn ngang. Nói chung, trại Thanh Cẩm này đang trên đà “làm ăn phát đạt”, cứ mỗi năm lại xây thêm nhà mới !


        Dòng sông Mã trước cổng trại Thanh Cẩm


        Click image for larger version

Name:	song-ma.jpg
Views:	46
Size:	32.0 KB
ID:	171165

        Comment


        • Font Size
          #139

          TRẬT TỰ " GIÃ CẦY "


          Cán bộ trực trại mà tôi gặp khi mới bước chân vào đây là Thượng Úy Phú. Anh em chúng tôi gọi ông là “ Phú Già ” , và kính cẩn hơn nữa gọi bằng “ lão ” .

          Lão này nghiện rượu nặng và rất khoái nhậu thịt chó. Lão đúng thuộc loại cán bộ bầy nhầy, sáng say chiều xỉn. Giọng nói thì lè nhè và mặt mày lúc nào cũng đỏ gay như gấc!

          Chúng tôi cũng được biết anh trật tự “ lớn ” tên Phạm Đình Thăng, người Quảng Ngãi. Nghe nói lúc trước anh là Nghị viên Hội Đồng Tỉnh Lâm Đồng.

          Mắt anh hay nhìn lấm lét, nhưng thuộc loại có nhiều kinh nghiệm nên hành động có chừng mực để tránh tai tiếng.

          Anh biết một số anh em chúng tôi là Linh mục, nên cũng tỏ vẻ kính trọng, tuy anh không phải là người Công giáo. Trước mặt cán bộ anh cũng làm ra vẻ xum xoe, đôi khi cũng to tiếng với chúng tôi, nhưng anh không độc ác, mà đôi khi còn giúp đỡ vài chuyện lặt vặt như cho mồi lửa hút thuốc lào hoặc chuyển giúp vài món đồ giữa anh em chúng tôi ở các buồng kiên giam khác nhau v.v...

          Anh Thăng cũng là người khá vui tánh và tôi còn nhớ vài câu chuyện nhỏ về anh.

          Một ngày nọ, bất ngờ trại cho tù ăn một bữa thịt bò.

          Đây là một niềm vui, vì những dịp nào trại cho ăn thịt mà trong tù gọi là “ăn tươi” chúng tôi đều thuộc nằm lòng, và số những lần “ăn tươi” này không nhiều hơn số đếm trên đầu các ngón tay.

          Trưa hôm đó, khi gánh thức ăn lên khu kiên giam, Phạm Đình Thăng đi tới từng buồng, đứng bên ngoài cửa sổ, mặt mày hớn hở, miệng anh ta be be báo tin vui :

          - “ Bữa nay ăn một trăm phần trăm ‘bớp !’” Anh ta lập đi lập lại “tin vui trong ngày” đó rất nhiều lần.

          Sau này hỏi ra mới biết là con bò kéo cày của trại bị sụp hố què chân nên phải làm thịt, và mỗi người trên khu kiên giam chúng tôi được hai hoặc ba miếng thịt bò to cỡ bằng đầu ngón tay út của một em bé lên 10 !

          Dù vậy anh em chúng tôi cười đùa bảo nhau :

          - “ Giá mà trại này có nhiều cái hố như vậy thì hay biết mấy !"

          Cũng chính anh Thăng đã báo cho chúng tôi hay tin Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã qua đời . Khoảng hơn tháng sau, anh lại lên báo tin Giáo Hoàng chết. Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

          - Mới chết rồi sao lại chết gì nữa hả anh?

          Phạm Đình Thăng trả lời :

          - Cái ông mới lên cũng chết luôn rồi!

          Đó là một vài điều tôi còn nhớ về anh Thăng là trật tự chính trong trại lúc đó.


          Click image for larger version  Name:	30-tháng-4-ngaỳ-vào-vơ-vét-.jpg Views:	1 Size:	38.1 KB ID:	171734


          Anh trẻ kia tên Trương Văn Phát, người Tàu lai ở Chợ Lớn, làm thợ đóng giày, bị bắt vì tội vượt biên, làm phụ tá trật tự và đúng là một tên hắc ám.

          Không biết ở dưới “ làng ” anh ta xử sự ra sao, nhưng mỗi khi có việc gì liên quan tới chúng tôi trên khu kiên giam là anh ta quát tháo, nạt nộ và luôn dùng cách nói đe dọa :

          - “ Các anh hãy liệu hồn !"

          Đây là lý do tại sao Phát được chọn làm phụ tá trật tự.

          Trong tất cả các trại mà tôi được biết, trại nào cũng chỉ có một trật tự mà thôi. Tuy nhiên trại Thanh Cẩm này là trường hợp ngoại lệ, có tới hai người, một chánh và một phó !

          Tôi nghe nói, sở dĩ Trương Văn Phát được cho làm trật tự vì anh ta đã hối lộ cho “Phú Già” , cán bộ trực trại.

          Một số anh em cùng di chuyển từ trại Quảng Ninh lên trại Thanh Cẩm với Trương Văn Phát có kể lại rằng :

          - " Khi còn ở trong Nam, Phát ăn uống sinh hoạt chung với một anh bạn có nhiều tiền. Khi bị chuyển ra Bắc, sợ giữ nhiều tiền trong người sẽ bị công-an khám phá lấy mất, nên anh bạn giao cho Trương Văn Phát giữ phân nửa, nhỡ ra người này bị mất thì còn người kia.

          Không ngờ khi ra tới đất Bắc mỗi người được đưa về một trại khác nhau, nên Phát đương nhiên trở thành sở hữu chủ số tiền của anh bạn kia.

          Khi đến trại Thanh Cẩm, gặp ngay “ Phú Già ” nghiện rượu, thèm thịt chó, tiền lương không đủ nhậu, Phát đã từ từ bỏ tiền ra mua rượu thịt cho " Phú Già ” nhậu, nên “ Phú Già ” đã đưa Phát lên làm trật tự “ phó ”.

          Tôi không biết câu chuyện được kể lại này có hoàn toàn đúng như vậy không, nhưng điều tôi biết rõ là chức trật tự phó của Trương Văn Phát tại trại tù Thanh Cẩm là một biệt lệ của các trại tù cộng-sản.

          Để bày tỏ sự khinh bỉ tư cách và con người của Trương Văn Phát, anh em tù nhân có người gọi anh ta là trật tự “giả cầy”.

          Dĩ nhiên là họ gọi lén lút sau lưng, nếu để Phát nghe được và mách với “ Phú Già ” thì chắc chắn là anh nào gọi như thế sẽ phải trả một giá đắt cho cái vạ miệng của mình.



          Click image for larger version  Name:	22154595_1963041923722545_8089985765027444114_n.jpg Views:	1 Size:	26.7 KB ID:	171735

          Nhân đây tôi cũng muốn nói thêm về “ Phú Già ” đôi chút cho mặn mà câu chuyện.

          Khoảng hai năm sau khi chúng tôi tới trại, tức là năm 1980, “ Phú Già ” giải ngũ, cởi lớp áo công-an, về móc củ cỏ chung quanh khu vực trại.

          Tôi nghe mấy anh bạn ra ngoài lao động về kể chuyện, lúc này người ngợm ông ta rất tàn tạ và dơ bẩn.

          Thỉnh thoảng “ Phú Già ” đi mò cua bắt ốc có tạt qua chỗ các đội đang lao động ngồi nói chuyện dăm ba câu với các cán bộ và các tù nhân, vì dù sao cũng là chỗ tình cũ nghĩa xưa.

          Ông ta vừa nói chuyện vừa vớ ống điếu cày của các anh tù, kéo một hơi liền mấy bi thuốc lào, xong đứng lên mang giỏ, đội nón rơm lên đầu và xách gậy bỏ đi.

          Không có mấy người biết lão già gầy đét, xấu xí và đen thui thủi như một con dế than đó đã một thời hét ra lửa khi làm cán bộ trực trại và cũng là người đã ban cho Trương Văn Phát chức trật tự phó ở trại này.


          Click image for larger version  Name:	280728802_1035438693739746_5477021467314652433_n.jpg Views:	1 Size:	62.6 KB ID:	171737



          NHÓM TÙ QUÂN ĐỘI



          Chúng tôi đến trại Thanh Cẩm được vài tháng thì Phạm Đình Thăng được tha về.

          Trước đó không bao lâu, trại Thanh Cẩm đã tiếp nhận thêm 300 tù nhân mới, đó là các anh em quân nhân từ trại Yên Bái chuyển về, trong số này có một vài người tôi quen biết.

          Một đôi lần trong lúc được xuống bờ sông tắm giặt, thấy lại các anh em, tôi rất mừng, nhưng chúng tôi không dám nói với nhau một lời, chỉ lấy mắt chào nhau, vì tôi đang ở kiên giam và được xếp vào thành phần “ nguy hiểm ” nên bị cấm tiếp xúc với các tù nhân ở dưới “ làng ” .

          Các anh em Quân đội bị đưa ra Bắc, lúc đầu được phân phối rải rác trong các trại do bộ đội quản lý ở vùng thượng du Bắc Việt.

          Về sau, vì tình hình biến động ở biên giới như tôi đã nói ở trên, các trại này được giải tán và chuyển về các trại ở miền đồng bằng hay thượng du miền Trung, do công-an quản lý, trong đó có trại Thanh Cẩm.

          Khi Phạm Đình Thăng đi rồi, Trương Văn Phát tạm thời làm trật tự “chánh”.

          Phát có vẻ lúng túng, một phần vì còn quá trẻ chưa có kinh nghiệm, một phần bị anh em trong trại coi không ra gì. Mặc dù Phát đang giữ chức trật tự, nhưng nhóm tù trẻ Phục Quốc cùng đi với Phát từ trại Quảng Ninh đến trại Thanh Cẩm, chẳng những không ngán Phát mà còn hay trêu chọc.

          Nhóm này coi Phát như một phu gánh thức ăn lên khu kiên giam và khu kỷ luật, và là một tên đầy tớ để cán bộ sai vặt mà thôi.

          Vì tự biết là mình đang bị coi thường, Phát đã cố gắng tỏ ra uy quyền, nhưng càng tỏ ra uy quyền lại càng lố bịch và càng bị các anh em dưới “làng” trêu chọc.

          Dưới “làng”, Phát phải chịu thua, anh ta chỉ còn có thể tỏ ra uy quyền với các anh em chúng tôi ở khu kiên giam mà thôi.

          Mỗi lần có công việc liên quan tới chúng tôi, Phát thường ra lệnh và quát tháo ầm ĩ. Anh em bực mình lắm, nhưng cố nhịn vì sợ Phát “đì ” bằng nhiều cách, như không chịu mở cửa sớm khi cho ăn hoặc tự ý giảm bớt khẩu phần khoai sắn ít ỏi của chúng tôi.

          Tiêu chuẩn phần ăn của những tù kiên giam chỉ có 9 ký lô mỗi tháng, nếu bị Phát bớt nữa thì nguy to. Biết được chỗ yếu này nên Phát càng làm già hơn.


          Click image for larger version

Name:	12011369_154858891521928_7741734874491655352_n.jpg
Views:	44
Size:	83.2 KB
ID:	171738


          Như tôi đã nói, ở khu kiên giam tuy chúng tôi không bị cùm nhưng bị nhốt trong buồng cả ngày lẫn đêm. Trừ buổi trưa và buổi chiều được mở cửa cho ra lấy thức ăn và làm công tác vệ sinh, đó là thời gian hạnh phúc trong ngày.

          Mặc dù mỗi buồng trong khu kiên giam đều có bể nước và nhà cầu, nhưng trong thời gian đầu, cửa vào cầu tiêu bị khóa lại không cho sử dụng nên chúng tôi đành phải giải quyết việc đại tiểu tiện vào trong các ống bẩu, là các ống tre có ruột khá to được dựng đứng ở góc buồng.

          Tới giờ trật tự mở cửa phát thức ăn, chúng tôi chia phiên nhau đi đổ các ống phân và ống nước tiểu vào hố phân nằm ngay sau hè Nhà Đen.

          Đây là những giây phút thoải mái nhất trong ngày đối với chúng tôi.

          Lúc đó có người lợi dụng “ thời cơ ”, liếc trước nhìn sau, nếu thấy cán bộ hay anh trật tự không để ý là ra hiệu chào các bạn buồng bên hoặc nhanh tay lẹ chân truyền cho nhau vài bi thuốc lào hay tí quà cáp linh tinh.

          Ai không có nhiệm vụ thì đứng vươn tay vươn chân hít thở không khí trong lành. Nhưng rất tiếc là Phát không cho chúng tôi được hưởng một vài phút thoải mái này.

          Anh ta thúc giục chúng tôi phải làm công tác vệ sinh một cách nhanh chóng để trở vào buồng giam. Có khi chúng tôi làm công việc vệ sinh chưa xong thì đã nghe Phát quát :

          - “ Khẩn trương lên nào ! Vào buồng ! Hết giờ rồi !"

          Tôi nhớ một buổi trưa nọ tới phiên tôi đổ ống bẩu, vì phân đầy quá nên tràn ra ngoài bết cả vào tay. Trong khi tôi đang lúi húi tìm nước rửa thì có tiếng Phát giục tôi vào buồng. Tôi giả vờ không nghe, anh ta tiến lại phía tôi quắc mắt nạt :

          - Tôi bảo vào buồng! Bộ tai anh điếc hả ?

          Biết tên này muốn gây chuyện lôi thôi, tôi nghe nóng gáy nhưng cố bình thản :

          - Tay đầy cứt, tôi phải kiếm nước rửa đã chứ ?

          - Thì vào buồng mà rửa.

          Tôi trả lời tỉnh bơ :

          - Trong buồng lấy nước đâu rửa ?

          Anh ta bực tức :

          - Lấy nước uống mà rửa !

          - Rồi lấy gì uống ?

          Trương Văn Phát đành câm miệng đứng nhìn. Tôi vừa nói vừa đi lại bể nước cạnh Nhà Đen để tìm lon múc nước rửa tay, bực tức Phát chỉ mặt tôi nói:

          - Này ! Anh hãy liệu hồn ! Đừng có mà tưởng ‘cha cố’ là không ai dám làm gì nhá !

          Cách gọi “ bọn cha cố ” là một cách gọi xách mé mà cán bộ dùng để gọi các Linh mục chúng tôi. Trương Văn Phát cũng “ ăn có ” và gọi theo cách đó.

          Tôi yên lặng bỏ đi vô buồng, mặc dù không nhìn lại, nhưng tôi cũng hình dung được đôi mắt Phát đang đổ lửa nhìn theo các bước chân không có gì là “khẩn trương” của tôi.


          Click image for larger version

Name:	278615377_5263796167004121_5249441354331298232_n.jpg
Views:	42
Size:	16.3 KB
ID:	171739


          Lúc bấy giờ chúng tôi gọi các anh tù kiên giam như chúng tôi là “ heo nhốt chuồng ” . Gọi như vậy nghe hơi kỳ nhưng chắc không còn hình ảnh nào đúng hơn để so sánh.

          Cả ngày chúng tôi chỉ lẩn quẩn trong căn buồng chật chội, nói chuyện mãi rồi cũng hết chuyện để nói. Chúng tôi bày ra đủ thứ trò để giải trí như lấy giấy vẽ thành cờ tướng, cờ domino, bài xì phé v.v...

          Chơi đi chơi lại hàng giờ trong khi đợi chờ hai bữa ăn.

          Lúc bấy giờ là thời điểm :


          - “ Cả nước đang gặp khó khăn, dân ta đang phải khắc phục những hậu quả còn tồn tại do Mỹ ngụy gây ra !”

          Cán bộ giáo dục nói như thế, nên cả trại lúc đó phải tạm khắc phục ăn ngô, ăn khoai lang, ăn sắn mà trong Nam gọi là khoai mì.

          Mùa nào thức đó. Có lúc ăn sắn cả tháng liên tiếp, nên mặc dù bụng đói cồn cào nhưng mỗi lần ngửi mùi “ngà voi chưng cách thủy ” , có người đã buồn nôn.

          Nhưng rồi cũng phải ăn vì không ăn “ ngà voi ” thì biết ăn cái gì để sống ?



          Click image for larger version

Name:	chuyện+thủa+giao+thời+(tiểu+tử).PNG
Views:	37
Size:	396.8 KB
ID:	171740

          Comment


          • Font Size
            #140

            NHÂN VẬT LẠ XUẤT HIỆN



            Cầu Hàm Rồng bên bờ sông Mã



            Click image for larger version  Name:	ede003b624db3d9da4.jpg Views:	1 Size:	115.4 KB ID:	173711




            Một buổi chiều nọ, trời bỗng đổ mưa tầm tã làm nước đọng vũng chung quanh khu kiên giam.

            Vùng rừng núi Thanh Cẩm này thường có mưa to và giông bão, có lần mưa đá, những hòn bằng nắm tay rơi đầy trong sân. Thời tiết ở đây thật khắc nghiệt.

            Dân chúng quả là đủ kiên nhẫn để chống chọi với các thiên tai mà người cán bộ vô thần cộng-sản gọi là “giặc trời”.

            Sau cơn mưa trời quang trở lại.

            Trong lúc anh em chúng tôi đang ngồi bó gối nhìn ra cửa sổ nói chuyện trên trời dưới đất như thường lệ cho qua thời giờ, bỗng nghe tiếng chìa khóa lách cách bên ngoài.

            Chúng tôi ở buồng 1, ngay lối ra vào nên khi nghe tiếng động ở cửa là biết ngay có người vào. Việc cửa khu kiên giam được mở vào giờ bất thường như thế này bắt buộc chúng tôi phải theo dõi xem chuyện gì xảy ra.

            Nhìn qua cửa sổ, tôi thấy một anh tù lạ mặt vác cuốc bước vào sân, trong buồng chúng tôi đoán với nhau rằng anh này là anh trật tự mới.

            Sở dĩ chúng tôi đoán như vậy vì không một anh tù nào được vào khu vực này, trừ các anh có chức vụ như :

            - Trật tự

            - Văn hóa và y tế.


            Click image for larger version  Name:	278029862_5243324609051277_9039326306060164572_n.jpg Views:	1 Size:	63.7 KB ID:	173713


            Vả lại, một mình Trương Văn Phát không thể nào cáng đáng nổi vai trò trật tự. Việc thay đổi một anh trật tự có ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của anh em chúng tôi, nên tất cả năm người trong phòng đều dán mắt vào khe song cửa sắt để quan sát.

            Anh tù lạ mặt này, nước da ngăm đen, thân hình cao ráo, gân guốc và mạnh mẽ, khác với vẻ mập bệu và đi đứng lệt bệt của Trương Văn Phát.

            Người tù lạ mặt bước vào sân, bộ mặt lầm lì, chẳng để ý gì tới nhóm chúng tôi đang cố dí mặt vào song sắt cửa sổ nhìn ra. Anh ta bắt đầu cuốc đất, đào rãnh khai thông những vũng nước mưa đọng ngay bên ngoài cửa sổ buồng chúng tôi.

            Anh vung những nhát cuốc trông thật “chất lượng” và thành thạo.

            Lúc anh quay mặt vào, tôi được dịp quan sát kỹ lưỡng hơn.

            Anh ta khoảng 40 tuổi, trông rất rắn chắc, tay chân dài lều khều, cái tướng mà người Nam chúng tôi thường gọi là “chân chòi cổ loi”.

            Mặt anh ta dài và xương xẩu, tóc thưa và hơi hói trán, cặp mắt sâu, tròng trắng nhiều hơn tròng đen.

            Điểm đáng lưu ý nhất nơi anh là cái miệng.

            Tôi không biết coi tướng, nên chẳng biết phải diễn tả như thế nào, chỉ biết là có một cái gì không ổn nơi cái miệng đó, vì đôi môi của anh ta hình như chưa được cấu tạo đầy đủ làm môi trên và môi dưới không giáp mí nhau.

            Đúng ra không phải là cái môi theo nghĩa thông thường, mà là hai mảng thịt mỏng màu đen tái và lúc nào cũng nhơm nhớp nước bọt. Lâu lâu tôi thấy anh ta lè lưỡi liếm nước bọt bám ở hai bên khóe mép.

            Anh mặc đồng phục màu xanh của tù, chân mang dép râu, cạp quần hai bên hông được lận lên thành một búi như đang giấu hai quả trứng bên trong.

            Cảm nghĩ đầu tiên của tôi sau vài giây quan sát là anh này không phải là một tay vừa.

            Tôi nghĩ, nếu quả thật anh ta được cử làm trật tự thì không dễ thở đâu. Trông anh ta có một cái gì khác cả Phạm Đình Thăng lẫn Trương Văn Phát, và “cái gì khác” đó không hứa hẹn một tương lai sáng sủa nào cho anh em tù kiên giam chúng tôi.



            Click image for larger version  Name:	NPPBDTLNH_001.png Views:	1 Size:	11.0 KB ID:	173714



            Anh ta cắm cúi cuốc đất, ít khi ngước mặt nhìn lên và cũng chẳng buồn để ý tới chúng tôi đang chen nhau bên trong cửa sổ, đang dí mặt vào các song sắt để theo dõi quan sát anh.

            Có lúc tôi thấy anh ta dừng tay nghỉ mệt, dựng cái cuốc dưới chân, đứng thẳng người lên, khạc nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay và áp lòng bàn tay kia vào xoa đi xoa lại thật mạnh, tay nọ nắn bóp tay kia, xong lại khom người xuống tiếp tục cuốc đất.

            Ngay cả những lúc ngừng tay như vậy, anh ta cũng chẳng hề nhìn thẳng vào chúng tôi bên kia song sắt, chỉ cách anh ta chừng một thước tây.

            Từ bên trong cửa sổ, chúng tôi cố gợi chuyện với anh. Rõ ràng là anh không muốn trả lời, nhưng nhiều người hỏi quá buộc lòng phải đối đáp nhát gừng.

            Sau một cuộc phỏng vấn với tất cả nhiệt tình của người hỏi và được trả lời một cách miễn cưỡng, chúng tôi được biết anh ta từ trại quân đội ở Yên Bái mới được chuyển về đây ít lâu và vừa được trại cử làm trật tự thay cho Phạm Đình Thăng đã ra về.b]

            Anh ta cho biết là người Công giáo ở xứ Gia Cốc, Hố Nai, người Bắc di cư, gốc Địa phận Hải Phòng.[/b]

            Nghe tới hai tiếng Hải Phòng, cha Chu Văn Oanh, một Linh mục lớn tuổi trong buồng tôi mừng rỡ :

            - Anh gốc Địa phận Hải Phòng hả ? Tôi cũng Hải Phòng nè ! Thế anh có biết cha nào gốc Hải Phòng không?

            - Cha Bình !

            Cha Oanh vội rước lời :

            - Cha Bình làm quản lý của địa phận Hải Phòng, bây giờ cha đang phục vụ tại Giáo phận Long Xuyên chứ gì ?

            - Đúng rồi !

            Cha Oanh hớn hở :

            - Cha Bình là bạn thân của tôi, hai người thân nhau lắm !

            Thinh lặng một lúc khá lâu như để lựa lời, một lúc sau anh nói ngắn gọn:

            - Cha Bình là chú tôi.

            Cha Oanh vui mừng ra mặ t:

            -Thế thì may quá, không ngờ được gặp cháu cha Bình ở đây. Nếu anh có viết thư, nói tôi là cha Oanh, không, phải nói cha Oánh ngài mới biết, vì lúc bấy giờ tôi tên là Oánh, gửi lời hỏi thăm ngài nhé ! Thế anh tên là gì nhỉ ?

            - Thi !

            - Cái gì Thi ?

            Anh ta ngập ngừng tỏ vẻ hơi khó chịu trước cái cách “thấy sang bắt quàng làm họ” một cách quá lộ liễu của ông Linh mục già này. Nhưng cuối cùng cũng đáp gọn:

            - Bùi Đình Thi !

            Tôi cũng có chút hơi ngượng trước thái độ cầu thân thái quá của cha Oanh, nhưng trong lòng tôi lúc đó cũng mừng thầm, vì từ nay có một người Công giáo làm trật tự.

            Anh ta lại có chú làm Linh mục, bạn của cha Oanh, chắc từ nay cảnh sống kiên giam sẽ đỡ hơn, không như tên Phát “vô đạo” hỗn láo, đối xử với chúng tôi thật chẳng ra gì !

            Ngon đà, cha Oanh còn hỏi thêm mấy câu nữa, nhưng anh ta vác cuốc bỏ đi nơi khác làm cha Oanh cụt hứng.


            Click image for larger version  Name:	babui_042013_4.jpg Views:	1 Size:	36.4 KB ID:	173715



            CHỌN THẾ ĐỨNG



            Cảnh sống thiếu thốn về vật chất, cộng thêm những khổ ải tinh thần đã làm một số người gục ngã.

            Cái đói nó hành hạ thân xác chúng tôi một cách triền miên.


            Gần như tối nào cũng vậy, cứ vào khoảng 9 giờ, lúc nghe chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân qua cái loa trong trại, là tôi cảm thấy cơn đói lên đến cực độ.

            Hiện tượng này ngày nào cũng giống nhau. Bắt đầu tôi cảm thấy mệt lả, không còn ngồi được nữa và phải nằm dài xuống, kế đến là ù tai, hoa mắt và mồ hôi toát ra ướt cả lưng, rồi bất tỉnh không còn biết gì.

            Cũng may, tình trạng này chỉ kéo dài chừng vài ba phút, sau đó tự nhiên tôi cảm thấy trong người khỏe khoắn trở lại, ngồi dậy lau mồ hôi và cơn đói cũng biến mất !

            Cứ thế, chúng tôi chờ đợi 13 tiếng đồng hồ sau mới được lãnh khẩu phần, mỗi người vài chiếc “ ngà voi ” !

            Anh em tù chúng tôi lúc đó hầu như ai cũng biết câu này :

            - “ Không ăn thì đói, ăn vào đói hơn !"
            , vì khi ăn vào dạ dầy bắt đầu bị đánh thức và hoạt động, nhưng không có chất liệu gì cho nó làm việc.



            Click image for larger version

Name:	images?q=tbn:ANd9GcRxgz9aC7dEfimZCSmf1vaWX98Y9g3h-YqRHqa4UUDNsXk0DO8cXKE0wUxeaeOajvcWZv8&usqp=CAU.jpg
Views:	41
Size:	14.3 KB
ID:	173716


            Cái đói triền miên, cộng với thái độ hận thù của những người công-an áo vàng và hai anh tù trật tự áo xanh hắc ám, khiến chúng tôi lúc nào cũng cảm thấy ngột ngạt khó thở.

            Chúng tôi sống mà không có gì trước mắt để hy vọng, không biết ngày mai của mình sẽ ra sao.

            Tù chính trị chúng tôi không có tòa nào xử, không có kêu án, nhưng được gọi bằng cái tên rất đẹp là [b][size=4][color=green][i] “Tập Trung Cải Tạo”.

            Nếu ai “cải tạo tốt” sẽ được đảng và nhà nước khoan hồng cho về đoàn tụ với gia đình !

            Tôi còn nhớ mãi hình ảnh của anh Lâm Thành Văn, người bạn tù cùng buồng, có nhiều đêm trằn trọc không ngủ được, anh kéo tôi xuống góc phòng sát vách nhà cầu ngồi hút thuốc lào.

            Hút xong, hai anh em ngồi nói chuyện rù rì một lát. Lần nào Lâm Thành Văn cũng buồn rầu nói :

            - “ Chắc nó giam mình chết rục xương trong tù quá anh Lễ ơi !”


            Tôi nhớ mãi ba tiếng “chết rục xương” của Văn, mà mỗi lần nghĩ tới tôi vẫn còn xúc động.



            Click image for larger version

Name:	traicaitao1.jpg
Views:	39
Size:	24.2 KB
ID:	173717


            Riêng số anh em thuộc nhóm 48 Quyết Tiến từ Cổng Trời về, chúng tôi tự biết rõ số phận đã được nhà cầm quyền cộng-sản định đoạt như thế nào rồi. Vì sợ có chiến tranh biên giới nên chúng tôi mới được về đây, bằng không thì giờ này chúng tôi đang chết dần chết mòn ở Cổng Trời.

            Họ không giết chúng tôi công khai, nhưng họ tha tội chết mà hành tội sống.

            Mặc dù cán bộ vẫn luôn nói tới tính khoan hồng nhân đạo của đảng, nhưng chúng tôi quá hiểu , đây là một lối tuyên truyền láo khoét để ru ngủ những kẻ nhẹ dạ.

            Trong cảnh khốn cùng và tuyệt vọng đó, ai cũng mong có ngày về, nhưng mỗi người có một lối suy nghĩ và thái độ khác nhau.

            Đại đa số sống an phận và để mặc cho số mệnh đưa đẩy, tới đâu thì tới.

            Một số người cố lập công “cải tạo tốt” để được về sớm bằng cách làm mật báo, theo dõi các anh em trong buồng và trong đội.

            Có người
            đã bày ra những chuyện lếu láo hại anh em.

            Có người đã thực sự “bán linh hồn”, công khai đứng hẳn về phía cộng-sản và có những hành động còn “cộng-sản” hơn những người cộng-sản bình thường.

            Một số khác chủ trương phải tìm cách thoát ra được khỏi nơi này mới mong được sống còn, trong số đó có tôi.

            Chúng tôi đều biết rõ trại Thanh Cẩm nằm trên một ốc đảo, chung quanh núi sông bao bọc, đường ra là độc đạo, nên muốn thoát khỏi chốn này không phải là chuyện dễ.

            Mấy anh Tàu “gián điệp” bị giam ở nhà kỷ luật rất giỏi về phương hướng và mưu sinh, nhưng lần nào trốn ra cũng bị bắt lại.

            Tuy nhiên, trong số tù hình sự vượt ngục mà chúng tôi biết từ ngày đến trại Thanh Cẩm cũng có vài người thoát được.

            Như vậy chuyện trốn thoát khỏi trại Thanh Cẩm không phải là hoàn toàn vô vọng.

            Chúng tôi biết nếu bị bắt lại, sẽ bị đánh đập và hành hạ dã man, nhưng trong cảnh khốn cùng, tôi nghĩ phải chấp nhận mọi rủi ro.

            Chúng tôi thường bảo nhau :


            - Vượt ngục là đi vào cõi chết để tìm sự sống.


            Click image for larger version

Name:	278437038_1020438985239717_202635073691574962_n.jpg
Views:	39
Size:	128.8 KB
ID:	173718

            Comment


            • Font Size
              #141


              " TRUNG QUỐC VĨ ĐẠI "

              Đầu năm 1979, chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam lên tới cao điểm. Đêm đêm, cái loa của đài phát thanh trong trại vang lên inh ỏi tin tức chiến sự và những lời chửi bới Trung Quốc.

              Tiếng chửi bới cứ ra rả ngày đêm rót vào tai chúng tôi.

              Họ dùng đủ mọi hình thức và mọi kiểu để chửi Trung Quốc, từ tin tức, bình luận, kịch nghệ, âm nhạc v.v... Từ chửi thanh tới chửi tục, kiểu gì cũng có.

              Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao các thợ viết kịch của chế độ cộng-sản Việt Nam đã sáng tác được những vở kịch chửi Trung Quốc nhanh và hay đến như thế.

              Những khẩu hiệu ngày trước Hồ Chí Minh dùng để ca ngợi người anh em Trung Quốc “núi liền núi, sông liền sông”, [/i][/color][/size][/b] bây giờ không còn nữa.

              Thay vào đó, lúc này họ “ca ngợi” Trung Quốc bằng hai câu thơ mà đêm nào chúng tôi cũng nghe trong chương trình phát thanh Quân Đội Nhân Dân. Nghe mãi rồi tôi thuộc nằm lòng :


              “Quốc kỳ là váy đàn bà,

              Quốc huy là cái bội gà mang theo!”


              Sở dĩ có hai câu thơ hạ cấp ấy vì theo họ nói, lính Trung Quốc đánh tràn qua các làng mạc Việt Nam ở vùng biên giới, đã vơ vét tài sản của dân chúng không chừa một thứ gì, kể cả váy đàn bà và cái bội nhốt gà.

              Vì thế, Chính phủ Việt Nam nghĩ rằng lính Trung Quốc mang váy đàn bà về làm quốc kỳ thay cho cờ đỏ ở góc có mấy ông sao, và cái bội nhốt gà được sơn lại thành màu đỏ để treo lên tường làm quốc huy!

              Tôi xin ngả mũ thán phục óc tưởng tượng vô cùng phong phú của những cán bộ tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.

              Đêm đêm nằm nghe chửi kiểu này, tôi mỉm cười nghĩ thầm rằng, may mà các [color=green “người bạn Trung Quốc vĩ đại” [/color] không hiểu được tiếng Việt, nếu hiểu được chắc họ cũng nhức đầu không kém gì anh em tù Thanh Cẩm chúng tôi.

              Tôi thấy cách nói “trò hề chính trị” ít có chỗ nào được dùng đúng nghĩa hơn chỗ này !



              Click image for larger version  Name:	280302422_541615784042498_6129370877644800408_n.jpg Views:	1 Size:	25.3 KB ID:	173952



              GẶP LẠI " CỐ NHÂN "

              Cuộc sống của tôi đang đều đều trôi qua một cách nặng nề như thế, thì một ngày kia, vào khoảng tháng 2 năm 1979 , có phái đoàn Cục Cảnh-sát vào thăm khu kiên giam trong giờ ăn trưa.

              Phái đoàn chừng bốn, năm người mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay, quần màu vàng, áo bỏ ngoài quần, đầu đội nón cối, vai mang sắc-cốt.

              Mới nhìn qua trông giống như một tốp thợ sửa điện, hoặc mấy ông thợ hoạn lợn mà lúc còn nhỏ tôi thường thấy đi vào làng thiến heo.

              Họ chỉ trỏ, nói năng gì đó với ông trại trưởng, lúc đó là Thiếu tá Thực, theo hướng dẫn phái đoàn.

              Ông trại trưởng có vẻ khép nép khi nói năng đối đáp lại. Nhìn thấy thái độ của trại trưởng đối với mỗi phái đoàn, chúng tôi có thể đoán được tầm quan trọng của từng phái đoàn.

              Thỉnh thoảng có những phái đoàn khác nhau vào thăm trại, nhưng không phải lần nào trại trưởng cũng hướng dẫn. Có khi người hướng dẫn phái đoàn chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ đi theo.

              Lúc ấy tôi biết ngay đó chỉ là loại phái đoàn loại “dỏm”.

              Trưa hôm ấy, như thường lệ sau khi Bùi Đình Thi mở cửa buồng, chúng tôi ra ngoài, người lấy cơm, kẻ quét tước dọn dẹp.

              Lúc này không còn phải đi đổ các ống bẩu nữa, vì chúng tôi đã được sử dụng cầu tiêu trong buồng.

              Thông thường như mọi ngày khác, khi anh trật tự mở cửa buồng cho tù ra sân, chúng tôi rất vui vẻ, đi lại nhốn nháo, có khi lợi dụng lúc không ai để ý còn “quan hệ linh tinh” với các anh em buồng bên cạnh.

              Tuy nhiên, hôm đó mọi chuyện được làm trong bầu khí yên tịnh và trang nghiêm, khác với ngày thường vì đang có phái đoàn Cục Cảnh-sát đứng trong sân quan sát.

              Nhóm người lạ mặt này đứng yên lặng nhìn chúng tôi mà không hỏi han gì, khiến cho bầu không khí lúc bấy giờ càng trở nên căng thẳng. Lấy thức ăn xong, chúng tôi vào buồng và Bùi Đình Thi đóng cửa, cài then bên ngoài bằng song sắt như thường lệ.

              Trong lúc anh em đang chia thức ăn trong buồng, nhìn ra ngoài, tôi chợt thấy một người cao lớn mặc sắc phục công-an bước vào sân.

              Tôi giật mình khi nhận ra Đại tá Hoàng Thanh, một thứ “khắc tinh” của tôi từ nhiều năm qua. Tôi lẩm bẩm một mình :

              - “Gặp lại cố nhân nữa rồi !”

              Đại tá Hoàng Thanh làm Cục trưởng Cục Cảnh-sát thuộc Bộ Nội Vụ.

              Lúc ấy ông đã ngoài 50, người cao lớn dềnh dàng nhưng không mập, lưng tôm, mặt bẹt, đôi gò má nhô cao, miệng rộng, các kẽ răng đen lại vì nhựa thuốc lào và chè (trà) đặc.

              Điểm trái ngược trên khuôn mặt rộng bèn bẹt này, là cặp mắt ti hí thật nhỏ và tròn như mắt loài chồn cáo.

              Mắt ông ta không bao giờ đứng yên mà lúc nào cũng chao đảo, liếc qua liếc lại. Cho dù thiện ý đến đâu, tôi cũng không thể hình dung được một sự lương thiện tối thiểu nào ẩn nấp đàng sau đôi mắt ấy.

              Tôi đã từng chạm mặt với Hoàng Thanh nhiều lần ở trại Nam Hà trước khi bị đi đày lên Cổng Trời.

              Khi nói chuyện với tôi, thỉnh thoảng ông ta có cười nhưng chỉ cười bằng miệng, còn đôi mắt và khuôn mặt không dự phần một chút nào vào tiếng cười ấy.

              Tôi vẫn ngại tiếng cười của ông ta, loại tiếng cười được phát ra qua kẽ răng khép kín tạo thành một hơi gió xì xì như tiếng rít của loài rắn lục trong đêm.

              Dưới cái nhìn của tôi lúc đó, Hoàng Thanh là một mẫu cán bộ Việt cộng điển hình, vì trông ông ta rất giống các hình vẽ cán bộ Việt cộng trong các tranh biếm họa ở miền Nam trước kia, nhưng có điểm hơi khác là ông ta thiếu hàm răng vẩu.

              Hoàng Thanh dừng lại giữa sân nói gì đó với cán bộ trực trại một chập, rồi cả hai đi thẳng tới cửa buồng 1 của chúng tôi và dừng lại một lúc bên ngoài cửa sắt.

              Vì cánh cửa che khuất nên tôi không biết ông ta đứng đó làm gì, nhưng tôi đoán là ông ta đang đọc bảng tên dán ở cửa buồng. Linh tính báo cho biết là sắp có chuyện liên hệ đến tôi, nên tôi lo chuẩn bị tinh thần, vì từ trước tới nay, chưa lần nào gặp tôi mà Hoàng Thanh để tôi yên bao giờ.


              Click image for larger version  Name:	T%C3%94I+PH%E1%BA%A2I+S%E1%BB%90NG.jpg Views:	1 Size:	14.3 KB ID:	173953


              Tôi đoán không sai !

              Ông ta bước trở ra sân, vẫy tay gọi Bùi Đình Thi lại để mở cửa buồng. Nghe tiếng chìa khóa mở cửa lách cách bên ngoài, trong buồng chúng tôi ngưng chia thức ăn và ngồi cả lên bệ nằm bằng xi-măng.

              Cửa buồng mở ra, Hoàng Thanh bước vào một mình.

              Ông ta đi dọc theo lối đi ngắn trước mặt chúng tôi một cách chậm rãi có chủ ý.

              Chúng tôi lên tiếng “chào cán bộ” theo quy định và ngồi yên chờ đợi.

              Ông ta bước chậm, hai tay chắp sau lưng và nhìn thẳng vào mặt từng người chúng tôi, như một ông tướng đang duyệt qua hàng quân của mình. Bầu không khí trong phòng lúc đó trở nên nặng nề và căng thẳng khác thường.

              Từ lúc bước vào buồng, Hoàng Thanh không nói một lời nào. Khi đi tới cửa cầu tiêu ở vách bên trong, ông ta quay trở ra, gần tới cửa buồng. Tôi mừng thầm nghĩ bụng, như vậy chắc là xong, lần này chẳng có việc gì xẩy ra.

              Nhưng khi ra tới cửa, bất ngờ ông ta quay lại, chỉ thẳng vào tôi và hất hàm hỏi bằng cái giọng khàn khàn quen thuộc:

              - Anh mang kính ngồi trong cùng kia có phải là anh Nguyễn Hữu Lễ không?

              Tuy trong lòng đang lo ngại, nhưng tôi đáp lại thật gọn và rõ ràng:

              - Báo cáo cán bộ, đúng, tôi là Nguyễn Hữu Lễ.

              Ông ta nhếch mép cười, vẫn cái cười cố hữu mà tôi e ngại, nhẹ nhàng nói :

              - Tôi cũng định hôm nào rảnh, mời anh lên để chúng ta nói lại một chút về vụ tàu Sông Hương, anh Lễ nhé !

              Nói xong ông ta bỏ đi ra cửa, không đợi tôi trả lời.

              Tôi ngồi lặng yên và bàng hoàng khi nghe Hoàng Thanh nhắc tới vụ tàu Sông Hương và nghĩ bụng, “ thế là tên cáo già này chưa buông tha mình !”

              https://www.youtube.com/watch?v=t0ksj9vhda4

              Comment


              • Font Size
                #142

                CÁI GIÁ CỦA TỰ DO


                Lúc này số người trong buồng 1 khu kiên giam đã thay đổi, không còn là số người hai tháng về trước.

                Việc xáo trộn người qua lại giữa các buồng tại khu kiên giam, cũng như ở khu kỷ luật là biện pháp của trại, đề phòng các tù nhân cấu kết nhau để tổ chức vượt ngục.

                Các anh em dưới “ làng ” lâu lâu cũng bị đổi buồng như vậy.

                Việc phân tán này không theo một quy luật thời gian nhất định nào, nhưng thường là cứ vài ba tháng đổi buồng một lần, nhưng nếu buồng nào có dấu hiệu gì khả nghi, sẽ bị đổi nhanh hơn.

                Sống chung trong buồng 1 với tôi lúc bấy giờ có những người sau đây :

                - Anh Nguyễn Sỹ Thuyên, ngoài 50 tuổi, người lớn tuổi nhất trong buồng, nguyên là giáo sư dạy toán tại nhiều trường trung học ở Sài-Gòn.

                Anh là người có tinh thần quật khởi, lại có tài làm thơ và có nhiều bài thơ Đường rất hay.

                Anh cũng là người bạn tù lâu nhất của tôi trong buồng này. Chúng tôi bị giam chung với nhau ngay từ trại Gia-Ray ở trong Nam, đi chung chuyến tàu Sông Hương ra Bắc, ở chung tại trại Nam Hà, cùng bị đày lên Cổng Trời và cùng trong Nhóm 48 Quyết Tiến chuyển về trại này.

                - Anh Trịnh Tiếu, 51 tuổi, Đại tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH). Anh đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như :

                - Trưởng Phòng 2 của Quân Đoàn II, Tỉnh trưởng cuối cùng của tỉnh Ban Mê Thuột.

                Tôi gặp anh Tiếu tại trại Cổng Trời. Anh từ một trại ở miền Trung bị đưa lên đó sau tôi ít lâu và cùng chuyển về trại Thanh Cẩm trong nhóm 48 Quyết Tiến.

                - Anh Đặng Văn Tiếp, 46 tuổi, Thiếu tá Không quân QLVNCH, sau đó làm Dân Biểu Quốc Hội.

                Anh là người anh kết nghĩa với tôi từ trên trại Cổng Trời.

                Anh Tiếp hiểu biết rộng và có nhiều kinh nghiệm chính trường.

                Vào tù, anh vẫn giữ thái độ hiên ngang bất khuất. Anh đã lãnh đạo cuộc chống đối trong trại Hà Tây và là một trong những tù chính trị miền Nam bị đày lên Cổng Trời sớm nhất.

                - Anh Lâm Thành Văn, 40 tuổi, chủ xe đò chạy đường Sài Gòn - Đà Lạt, bị bắt vì tham gia tổ chức Phục Quốc.

                Anh Văn đã ở trại Thanh Cẩm khá lâu và bị lên kiên giam trước khi chúng tôi từ Cổng Trời chuyển tới đây.

                - Linh mục Nguyễn Công Định , 45 tuổi, Tuyên úy Quân Đội tại Cần Thơ. Tôi cũng gặp cha Định tại Cổng Trời. Ngài từ trại Quân đội Yên Hạ chuyển lên đó cùng với một số Linh mục Tuyên úy khác sau tôi ít lâu.

                Cha Định cùng về trại này một lượt với tôi.

                Tôi là người trẻ tuổi nhất trong buồng với 36 tuổi đời. Trong tù, anh em thường gọi tôi cách thân mật của người miền Nam là “cậu Bảy” theo thứ tự anh chị em trong gia đình. Một phần cũng tránh lối xưng hô theo tước vị tôn giáo không phù hợp trong hoàn cảnh này.


                Tối hôm ngày chạm mặt bất ngờ với Đại tá Hoàng Thanh, tôi cảm thấy bất an trong lòng về một viễn ảnh đen tối đang chờ đợi tôi.

                Vụ âm mưu đánh cướp tàu Sông Hương chở tù nhân ra miền Bắc là một bản án treo của tôi. Mặc dù đã hai năm qua rồi, nhưng tôi biết cán bộ còn đang điều tra ráo riết về vụ này.

                Vụ tàu Sông Hương là một điểm “ chạm nọc ” trong tâm trí tôi. Mỗi lần nghe cán bộ nhắc tới, tôi cảm thấy lo âu cho tương lai của mình.



                Click image for larger version  Name:	20190820_PRISON_2000-copy-800x450.jpg Views:	1 Size:	17.1 KB ID:	176796


                Từ lâu nay, tôi cũng đã chuẩn bị sẵn những câu trả lời trong trường hợp bị thẩm vấn về vụ này. Nếu không chối được thì tôi sẽ nhận lãnh hết mọi trách nhiệm trong âm mưu này để những anh em khác khỏi bị liên lụy vào.

                Tôi cũng biết là hình phạt dành cho tôi cũng sẽ tương xứng với tính cách nghiêm trọng của những việc tôi đã làm trong chuyến tàu đó.

                Tôi bàn riêng với anh Đặng Văn Tiếp, người anh kết nghĩa với tôi, về thái độ của Đại tá Hoàng Thanh và chia sẻ với anh một tương lai đen tối đang chờ tôi.

                Anh Tiếp hiểu được tâm trạng của tôi vì ở trại Cổng Trời chúng tôi thường xuyên bàn định về con đường phải đi trong tương lai. Anh cũng biết số phận mà chế độ này sẽ dành cho anh, sau những hành động chống đối có tính cách bạo động của anh tại trại Hà Tây, nhất là sau vụ anh tổ chức lễ tang và đọc điếu văn tưởng niệm Luật sư Trần Văn Tuyên qua đời trong trại tù Hà Tây, vì anh Tiếp là một luật sư và ông Trần Văn Tuyên là thủ lĩnh luật sư đoàn trước kia.

                Đây là hành động mang màu sắc chính trị, một điều tối kỵ trong nhà tù cộng-sản.



                Click image for larger version  Name:	0609caitao_3.jpg Views:	1 Size:	31.3 KB ID:	176799


                Cả hai anh em tôi bàn đi tính lại nhiều lần trong những ngày tiếp theo và cảm thấy đã đến lúc phải tìm mọi cách thoát ra khỏi nơi này, điều mà chúng tôi ấp ủ từ lâu.

                Nếu thoát được, cuộc đời chúng tôi sẽ có nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp.

                Nếu chẳng may thất bại, chúng tôi sẽ phải trả một giá đắt. Điều này chúng tôi biết rất rõ và chấp nhận.

                Anh Đặng Văn Tiếp là một luật sư, nguyên là Thiếu tá Không Quân QLVNCH.

                Sau khi giải ngũ, anh đã ứng cử Dân Biểu Quốc Hội đơn vị Tân Bình, tỉnh Gia Định và là Dân Biểu thuộc phe đối lập trong Quốc Hội cho tới ngày 30.4.1975.

                Trước kia tôi có gặp anh vài lần khi hoạt động trong Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh mục Trần Hữu Thanh.

                Vào tù, chúng tôi gặp lại nhau ở trại Cổng Trời. Anh lên trại này trước tôi vài tháng.

                Lúc bấy giờ anh là một trong những người mà tôi mến phục vì anh là người có tư cách, hiểu biết rộng, từng trải việc đời và có khí phách hiên ngang.

                Tôi mến anh vì đức, kính trọng anh vì tài, và chúng tôi gặp nhau nơi ý chí kiên cường bất khuất ngay trong ngục tù cộng-sản.

                Từ những điểm tương đồng và thái độ tương kính đó, chúng tôi dần dần thân thiết nhau và kết nghĩa anh em.

                Tôi nhận Tiếp là anh vì anh lớn hơn tôi đúng 10 tuổi. Con người nghĩa khí đó lại cũng vừa là người con chí hiếu, một người bạn tình chung thủy. Anh thường nói chuyện với tôi về người mẹ mà anh rất yêu quý và những kỷ niệm thật đẹp giữa anh và chị Huyền Thanh, người mà anh đã chuẩn bị để cưới làm vợ.

                Từ ngày gặp nhau trên trại Cổng Trời, anh Tiếp và tôi đều nghĩ rằng :

                - Chỉ có một cách duy nhất để sống còn là vượt ngục, vì chúng tôi biết nhà cầm quyền cộng-sản đã quyết định cho chúng tôi chết dần chết mòn trong trại tù.

                Câu nói ngắn gọn của Đại tá Hoàng Thanh càng tô đậm thêm cái tương lai vốn đã đen tối của tôi và khơi dậy một cách mãnh liệt ý định vượt ngục luôn luôn lảng vảng trong đầu óc tôi.

                Khi còn ở Cổng Trời chúng tôi cũng đã một lần có ý định vượt ngục qua Trung Quốc, nhưng không thực hiện được vì bất ngờ bị đổi buồng ngay trong buổi trưa, trước đêm chúng tôi dự định hành động.

                Biết rằng đây là việc vô cùng nguy hiểm, và tôi đã từng chứng kiến cái giá mà những người vượt ngục thất bại đã phải trả như thế nào, nhưng chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải chấp nhận trả cái giá đó.



                Click image for larger version  Name:	caitao-2.jpg Views:	1 Size:	95.6 KB ID:	176797


                VƯỢT NGỤC VÀ VƯỢT NGỤC


                Lúc đang ở khu kiên giam tại trại Thanh Cẩm, tôi vẫn luôn có ý định vượt ngục. Tuy nhiên, vượt ngục từ khu kiên giam trại Thanh Cẩm quả thực là chuyện quá khó khăn vì có nhiều yếu tố bất lợi.

                Ngoài yếu tố nội tại với thân thể gầy còm, ốm yếu do thiếu dinh dưỡng sanh ra bệnh tật, cộng thêm buồng giam xây dựng kiên cố và chẳng có một thứ gì bằng kim loại trong buồng. Yếu tố ngoại tại cũng không kém phần khắc nghiệt.

                Bên ngoài là 2 lớp hàng rào kẽm gai của khu kiên giam và cuối là bức tường cao bằng đá xanh, cao quãng 5 thước chung quanh trại, trên mặt tường là một hàng rào kẽm gai cao khoảng 1 thước.

                Có quá nhiều vấn đề phải giải quyết trước khi bắt tay vào việc. Trước tiên là phải thuyết phục để sáu người trong buồng đều đồng ý, nếu ai yếu quá không thể tham gia được, phải làm sao bảo đảm cho họ ở lại mà không bị hành hạ và ngược đãi.

                Anh Tiếp và tôi bắt đầu bằng việc thăm dò tư tưởng của từng người, phải rào trước đón sau rồi mới dám gợi ý, vì nhỡ có ai không đồng ý và báo cáo ý định vượt ngục với cán bộ, lúc đó tai họa sẽ không lường được.

                Vì sống với nhau đã lâu, chúng tôi cũng đã một phần nào đoán biết được tâm trạng của nhau nên bắt đầu với những người có nhiều hy vọng nhất.

                Khi nghe chúng tôi bày tỏ ý định, hai anh Nguyễn Sỹ Thuyên và Trịnh Tiếu đồng ý ngay, nhất là anh Thuyên rất mừng rỡ.

                Anh nói với chúng tôi :

                - “ Trời! Tôi đã mong ước chuyện này từ lâu! Tôi cám ơn hai ông rất nhiều” .


                Riêng anh Lâm Thành Văn còn lưỡng lự vì anh đang đau dạ dày khá nặng, nhưng cuối cùng rồi cũng đồng ý sau khi anh em hứa nâng đỡ nhau trên đường trốn thoát.

                Chúng tôi gặp trở ngại với cha Nguyễn Công Định, ngài nhất định không tham gia. Sau khi nghe tôi đề cập tới vấn đề này một cách bóng gió, nửa đùa nửa thật, cha Định trả lời tôi dứt khoát :

                - Chừng nào được gọi tên là về, tôi không đi đâu cả, dù cửa mở cũng không đi đừng nói trốn !

                Tôi hỏi lại :

                - Nhưng nếu năm người chúng tôi đi cả thì bác tính sao ?

                Tưởng là tôi nói đùa, ngài trả lời :

                - Các người đi thì cứ đi, tôi ở lại một mình chứ sao!

                - Rồi bác trả lời sao với cán bộ ?

                - Trả lời sao kệ tôi !

                Thấy câu chuyện đã đi vào ngõ cụt, tôi cười giả lả :

                - Không đơn giản như bác nói đâu, nhưng mà này, nói chơi đấy nhá !

                Chúng tôi gặp trở ngại khá lớn đầu tiên khi cha Định quyết tâm ở lại. Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn lén lút chuẩn bị những gì có thể làm được.

                Lúc bấy giờ còn phải đề phòng cán bộ và trật tự bên ngoài, và trong buồng phải làm sao cho cha Định thấy như không có chuyện gì sắp xẩy ra. Chúng tôi nghĩ rằng cha Định không hại chúng tôi, nhưng thái độ có vẻ lo lắng hay một lời nói vô tình nào đó của ngài có thể làm cho cán bộ và trật tự nghi ngờ có âm mưu trốn trại, lúc đó thì mọi chuyện sẽ hỏng khi chưa bắt đầu và hậu quả không lường được.

                Không có cách nào khác hơn, nên năm người trong buồng quyết định vượt ngục, còn cha Định ở lại.

                Vấn đề là bàn tính với nhau xem cách nào hay nhất để giúp cha Định không bị tra tấn đánh đập sau khi chúng tôi trốn đi.

                Về thời điểm vượt ngục, chúng tôi đồng ý chọn ngày N là mồng 1 tháng 5 năm 1979.

                Ngày đó là ngày lễ Quốc Tế Lao Động, cả trại được nghỉ. Hơn nữa, theo kinh nghiệm chúng tôi biết thì hôm đó cán bộ được một bữa “bồi dưỡng”.

                Họ sẽ đánh chén say sưa và chểnh mảng trong việc canh gác ban đêm.


                Click image for larger version  Name:	128_traicaitao.jpg?w=640.jpg Views:	1 Size:	74.5 KB ID:	176800
                Last edited by hoalucbinh18; 12-13-2023, 01:18 PM.

                Comment


                • Font Size
                  #143

                  DỤNG CỤ ĐÀO TƯỜNG



                  Về dụng cụ đào tường, chúng tôi chỉ có một miếng sắt giẹp thật cứng, dài độ 20 phân được mài nhọn như cái đục .


                  Đây là dụng cụ chủ yếu và duy nhất mà chúng tôi có trong tay để thực hiện cuộc vượt ngục. Dĩ nhiên là không có dụng cụ này thì đã không có kế hoạch tiếp theo.

                  Miếng sắt này hình thù giống như ngọn giáo, gắn ở cánh cửa vào cầu tiêu.

                  Một đầu có lỗ tròn nhỏ để xỏ vào khoen sắt có đầu nhọn như cây đinh đóng vào cánh cửa gỗ nhà cầu.

                  Cây đinh dài ló đầu nhọn ra phía sau cánh cửa rồi bẻ gập lại, đầu kia của miếng sắt có xẻ rãnh rộng 1 phân dài 3 phân ở giữa để khi đóng cửa sẽ ập vào một thanh sắt hình chữ U gắn trên bờ tường, lúc đó thanh sắt hình chữ U sẽ nhô ra chui ngang khe rảnh của miếng sắt và có ống khóa bóp lại ở phần bụng của chữ U bên ngoài và cánh cửa không còn mở ra được.

                  Khi chúng tôi mới tới, cửa nhà cầu bị khóa lại và tù nhân phải đại tiểu tiện trong các ống bẩu bằng tre dựng bên ngoài cửa nhà cầu như tôi đã nói ở trên.

                  Một thời gian sau cửa vào cầu tiêu được mở và chúng tôi sử dụng cầu tiêu qua một lỗ tròn có cái mẹt chứa phân bên dưới. Mỗi ngày có một anh tù mở cửa gỗ phía sau nhà, vào hầm gánh phân ra cung cấp cho đội trồng rau xanh.

                  Từ khi cửa được mở ra thì miếng sắt được treo lơ lửng vô dụng trên cánh cửa vào nhà cầu.

                  Miếng sắt màu đen vô tội được đóng vào cánh cửa nhà cầu này vô tình trở thành cơn cám dỗ và cũng dự phần rất lớn vào việc thúc đẩy tôi thực hiện ý định vượt ngục.

                  Ngay trong ngày đầu khi cửa vào cầu tiêu không còn khóa lại và thấy miếng sắt treo lơ lửng trên cánh cửa gỗ tôi đã nghĩ :

                  - “ Tại sao mình không dùng miếng sắt trời cho này để đào tường vượt ngục ?”

                  Khi quyết tâm thực hiện kế hoạch vượt ngục thì việc đầu tiên là chúng tôi lén lút tháo miếng sắt ấy ra, mài cho bén và gắn hờ trở lại chỗ cu,õ để khi hành động thì tháo ra dễ dàng.

                  Nhưng cái khoen sắt có đầu nhọn như cây đinh, đóng vào cánh cửa để treo miếng sắt giẹp này lại to như chiếc đũa, và phía đầu nhọn ló ra sau cánh cửa được đóng gập lại rất chắc.

                  Muốn lấy được miếng sắt giẹp này thì việc đầu tiên là phải làm sao kéo thẳng đầu nhọn của cây đinh, đóng gập sau cánh cửa ra mới cầm miếng sắt giẹp xoay tròn và rút ra được.

                  Trong hoàn cảnh khu kiên giam, chúng tôi không được giữ bất cứ một thứ gì là kim loại trong buồng, thì việc kéo thẳng đầu một cây sắt to bằng chiếc đũa đóng gập vào phía sau cánh cửa gỗ không phải là chuyện đơn giản.

                  Nhìn qua ngó lại, tôi thấy chỉ còn sót lại hai thứ bằng kim loại là chiếc muỗng nhôm tôi cố gắng giấu được qua bao nhiêu lần khám xét và một vật bằng kim loại hợp pháp khác là cái quai xách của lon Guigoz đựng nước uống của anh Lâm Thành Văn, làm bằng ruột dây kẽm gai.



                  Click image for larger version

Name:	anh-11352643.jpg
Views:	31
Size:	32.1 KB
ID:	182522


                  Anh Lâm Thành Văn ở khu kiên giam này trước chúng tôi và không hiểu vì lý do gì anh còn giữ được cái quai xách bằng dây kẽm này trong khi mấy anh em chúng tôi lên sau đã bị tháo vất đi hết và chúng tôi phải xé dây bao cát ra để làm quai xách cột trên miệng lon Guigoz khi lấy nước sôi.

                  Cái quai xách lon nước uống của Văn vô tình trở nên của quý !

                  Chúng tôi tháo đoạn dây thép ấy ra, mài cho thật nhọn và nhủi một đường trên cánh cửa gỗ chui lòn bên dưới đầu nhọn gập lại của cây sắt. Sau khi xỏ lòn được đoạn dây kẽm bọc ra phía sau cây sắt, chúng tôi nối đoạn dây kẽm lại thành một khoen tròn và dùng thế đòn bẩy nại cây đinh thẳng ra ! Vấn đề khó khăn coi như được giải quyết.

                  Sau đó chúng tôi tháo miếng sắt giẹp ra, mài đầu kia thật bén như dao và hơ khói cho đen lại, rồi gắn trở lại cánh cửa coi như không có chuyện gì xảy ra.

                  Dĩ nhiên là việc này chúng tôi phải giấu cha Định.

                  Thời gian tiếp theo, miếng sắt vẫn treo lơ lửng trên cửa và từ cán bộ tới trật tự chẳng ai để ý gì tới cái miếng sắt nhỏ vô tội này.

                  Nhưng nhóm chúng tôi, đặc biệt là cá nhân tôi thì không hiểu tại sao, cứ thỉnh thoảng tôi lại đưa mắt liếc nhìn miếng sắt đó, dù không muốn nhìn nhưng vẫn cứ phải nhìn !

                  Lúc bấy giờ chúng tôi cũng đã bảo nhau, nếu bất ngờ bị đổi buồng thì coi như không có gì xảy ra, còn trong trường hợp cán bộ hay trật tự phát giác ra miếng sắt bị tháo ra và mài nhọn, chúng tôi chỉ việc bày tỏ thái độ “ vô cùng ngạc nhiên ” là xong.

                  Vì buồng này đâu có phải chúng tôi là những người chiếm ngự đầu tiên ! Vả lại khi đưa chúng tôi vào buồng này có ai để ý gì hoặc là chụp hình vị thế của miếng sắt vô tội vạ ấy đâu.

                  Với miếng sắt nhọn và bén như lưỡi dao này, chúng tôi đã tạm yên tâm về dụng cụ đào tường, vì trong hoàn cảnh đó không thể tìm được thứ gì tốt hơn !

                  Ngoài ra, còn có một cái muỗng bằng nhôm cũng có thể có chút giá trị nào đó, mặc dù chúng tôi biết là dụng cụ bằng nhôm rất mềm, nhưng đó là dụng cụ bằng kim loại duy nhất, sau miếng sắt “ báu vật ” mà chúng tôi đang có.



                  Click image for larger version

Name:	zz-thtu-xaothit.jpg
Views:	28
Size:	14.2 KB
ID:	182523


                  Về địa điểm để đào tường, sau khi đã nghiên cứu từng nơi từng chỗ và quan sát trong ngoài cẩn thận, chúng tôi thấy không còn chỗ nào tốt hơn là vách tường sau của cầu tiêu thông ra cái hầm chứa phân.

                  Hầm này nằm bên dưới cầu tiêu của 4 buồng kiên giam và ăn thông ra phía sau của khu nhà bằng, bởi một con đường, chỉ rộng chừng một thước rưỡi như một cái rãnh nằm giữa hai buồng phía sau, vừa đủ cho người tù vào hầm gánh phân ra.

                  Hầm chứa phân có một cánh cửa bằng gỗ chắc chắn, ban ngày mở ra nhưng chiều tối khi điểm danh được khóa lại.

                  Khu Nhà Bằng được xây dựng như chiếc bánh chưng được cắt làm tư nhưng hai buồng sau hẹp hơn hai buồng trước một chút vì bị xén đi mỗi bên một ít để làm cái rãnh thông vào buồng chứa phân này.

                  Theo dự trù, sau khi chúng tôi đào xong bức tường sau của vách cầu tiêu, sẽ chui ra và lọt được vào hầm chứa phân. Xong lại phải đào bật tung bản lề cánh cửa gỗ của hầm chứa phân rồi mới có thể bò theo con hẻm giữa hai buồng phía sau, lần tới chân bức tường rào của khu, sau khi vượt qua bức tường này mới ra tới chân của bức tường xây bằng đá xanh cao 5 thước, có hàng rào kẽm gai cao quãng 1 thước ở bên trên.

                  Bức tường trại này chỉ có một lối ra vào duy nhất là cổng trại nơi có lính canh gác ngày đêm . Cổng trại cũng là nơi ở và làm việc của cán bộ trực trại.

                  Nói tóm lại, nếu muốn thoát được ra bên ngoài, chúng tôi phải làm sao vượt qua được 4 trở ngại sau đây :


                  - Bức tường bằng gạch phía sau cầu tiêu

                  - Cách cửa gỗ chặn lối ra vào của hầm chứa phân

                  - Bức tường thấp của khu kiên giam, và cuối cùng là bức tường bằng đá xanh của trại, cao 5 thước.



                  Click image for larger version

Name:	1235080543.jpeg?h=a5f2f23a&itok=4wjcvDIh.jpg
Views:	29
Size:	63.9 KB
ID:	182524

                  Hình minh họa

                  Từ khi có ý định đào tường vượt ngục, chúng tôi để tâm quan sát khu vực này và thăm dò tìm hiểu nơi các anh tù hình sự trong đội xây dựng đang xây cất khu nhà kỷ luật gần bên.

                  Chúng tôi cũng dò hỏi mấy anh tù gánh phân thật cẩn thận về hình dạng, cách cấu trúc và giờ giấc đóng mở cửa của hầm chứa phân.

                  Nói tóm lại chúng tôi điều nghiên vấn đề này, ngay tới cả những chi tiết nhỏ nhất theo cách thức và hoàn cảnh lúc bấy giờ cho phép.

                  Sau khi tìm hiểu những dữ kiện cần thiết, chúng tôi vẽ ra một bản đồ chi tiết bằng cách lấy than vạch lên bệ nằm để anh em cùng nghiên cứu, nhưng việc nghiên cứu bản đồ này cũng phải giả vờ như anh em ngồi xúm lại chơi cờ tướng trong lúc cha Định ngủ trưa để tránh sự nghi ngờ của cha Định.

                  Từ khi bắt đầu thai nghén kế hoạch cho tới ngày N (1-5-1979) chúng tôi có 2 tháng để điều nghiên và chuẩn bị.


                  Có hai việc phải làm cùng một lúc là vừa âm thầm chuẩn bị dụng cụ, thăm dò tìm hiểu tất cả những chi tiết liên quan tới cuộc vượt ngục lại vừa phải canh chừng, đề phòng và khéo léo làm sao để cha Định không nghi ngờ và đoán biết ý định của 5 người chúng tôi.

                  Công việc sau này là việc khó nhất vì trong một căn buồng giam nhỏ chỉ vừa đủ chỗ cho 6 người nằm trở đầu ngược nhau mà chúng tôi phải giấu cha Định mọi chuyện, từ lời nói tới các việc làm và cả ánh mắt cái nhìn nữa.

                  Hàng ngày tôi vẫn có thói quen ngồi bên cửa sổ nhìn lên trốc bức tường đá xanh, bao chung quanh trại và điều nghiên việc làm thế nào để có thể vượt qua bức tường đó một cách an toàn cho cả 5 người chúng tôi.

                  Nếu chỉ riêng cá nhân tôi và anh Tiếp với anh Tiếu thì không đến nỗi nào, nhưng có anh Thuyên khá lớn tuổi và nhất là Lâm Thành Văn lại yếu vì chứng đau dạ dày, cần sự nâng đỡ của anh em trong nhóm nhiều hơn.

                  Hàng ngày tôi vẫn ngồi ngước mắt nhìn bờ tường nhưng khi thấy cha Định tới gần là tôi phải quay đi giả vờ đứng bên cửa sổ hít thở không khí và làm như không có chuyện gì xảy ra.

                  Phải nói là trong 2 tháng trời đó, anh Tiếp và tôi là người anh em giao cho công việc điều nghiên và chuẩn bị, chúng tôi đã phải vận dụng hết khả năng, tìm tòi, óc sáng kiến, óc tưởng tượng cho kế hoạch đầy nguy hiểm này.



                  Click image for larger version

Name:	traiz30dhamtan.jpg
Views:	29
Size:	19.0 KB
ID:	182526


                  Sự có mặt của cha Định đã làm cho công việc trở nên khó khăn gấp bội.

                  Trong buồng chúng tôi vẫn phải giữ nhịp độ sinh hoạt bình thường như chơi cờ tướng, cờ domino. Vì không thể tìm đâu ra quân cờ thật nên chúng tôi dùng giấy vẽ chữ các quân cờ tướng và các điểm tròn của cờ domino để chơi giải trí và cho qua thời giờ.

                  Khi cần trao đổi câu chuyện liên quan tới kế hoạch chúng tôi đợi lúc xuống sông Mã tắm giặt mới đứng gần nhau mà nói chuyện rù rì. Có những lần lợi dụng trong lúc phát thức ăn chúng tôi được vài phút ra sân làm vệ sinh mới có thể lén lút trao đổi vài câu chuyện.

                  Cũng may buồng giam có cánh cửa ngăn cách với khu vực có cầu tiêu và bể chứa nước bên trong nên có cần bàn việc gì chúng tôi đợi lúc cha Định ngủ mới lén vô cầu tiêu mà bàn chuyện.

                  Suốt trong hai tháng trời đó, chúng tôi cố gắng tìm hiểu và dự trù những chuyện có thể xảy ra, kể cả những chi tiết nhỏ nhất cũng được đặt ra, lại phải phân công nhau ra dòm chừng cha Định.

                  Vì tính cách quan trọng của cuộc vượt ngục nên chúng tôi dồn hết tâm trí và sức lực để chuẩn bị các thứ cần thiết.

                  Chúng tôi đang sắp sửa chơi một canh bạc lớn, và trong canh bạc này, chính mạng sống của chúng tôi được đặt xuống chiếu bạc trước mặt.

                  Một lớp học tập cải tạo tại Tây Ninh, 1976.
                  Hình: Marc Riboud/Phan Ba Blog


                  Click image for larger version

Name:	traicaitao-2.jpg?w=1024&ssl=1.jpg
Views:	28
Size:	88.1 KB
ID:	182525

                  Comment


                  • Font Size
                    #144

                    DỐC TÂM CHUẨN BỊ


                    Có quá nhiều chi tiết phải làm trong thời gian chuẩn bị cho chuyến đi định mệnh này.

                    Chúng tôi phân công mỗi người lo một việc, nhưng luôn hội ý với nhau xem công việc tiến triển ra sao và có gì khó khăn phải giải quyết.

                    Có hai kế hoạch được đặt ra :

                    - Kế hoạch một là nếu thoát ra được bên ngoài trước nửa đêm, chúng tôi sẽ đi vào rừng về hướng Tây qua biên giới Lào, để rồi từ đó tìm đường qua Thái lan.

                    - Kế hoạch hai, nếu bị trở ngại và ra bên ngoài muộn, chúng tôi sẽ xuôi dòng sông Mã để ẩn nấp, chờ dịp tốt sẽ đi vào rừng.

                    Chúng tôi quyết định nếu ra ngoài được chỉ có hướng đi duy nhất là băng qua rừng để tới đất Lào, rồi từ lào tìm qua Thái Lan.

                    Theo kế hoạch đó, yếu tố thời gian thật vô cùng quan trọng, phải cố gắng vượt qua được biên giới Việt-Lào cách trại 30 cây số càng sớm càng tốt, vì chúng tôi không thể nán ở lại sống trà trộn trong dân chúng tại miền Bắc được.

                    Khi còn ở trại Cổng Trời, chúng tôi đã học được kinh nghiệm của mấy anh em tù Biệt Kích là những người được huấn luyện kỹ lưỡng để thả ra Bắc, nhưng cuối cùng cũng bị dân chúng phát giác.

                    Điều trở ngại đầu tiên là giọng nói giữa hai miền Nam-Bắc khác nhau quá xa, vừa mở miệng ra là người khác sẽ biết ngay người đó ở vùng nào trên đất nước !


                    Click image for larger version  Name:	276989495_1612699972430581_2167708421535623969_n.jpg Views:	1 Size:	110.5 KB ID:	185478


                    Hơn nữa, dân chúng trong vùng Thanh Hóa này, nhất là những người Mường ở chung quanh trại Thanh Cẩm này rất nghèo và mỗi lần bắt được tù vượt ngục, họ được thưởng công rất hậu hĩnh.

                    Họ được thưởng gạo, rượu và bằng khen.

                    Gạo và rượu dĩ nhiên rất quý báu đối với người dân thiếu ăn gần như quanh năm trong vùng núi đá và thiên nhiên rất khắc nghiệt này, nhưng thức ăn chỉ có giá trị tạm thời.

                    Riêng bằng khen mới là điều người dân trong vùng mơ ước vì có giá trị về lâu về dài.[/size

                    Trước tiên là được miễn góp ngày công lao động cho hợp tác xã, sau đó còn được ưu tiên trong những đợt cấp phiếu mua nhu yếu phẩm trong các dịp Tết hoặc trong những đợt mua hàng tiêu chuẩn bất thường khác trong năm.

                    Nói tóm lại, công việc bắt tù vượt ngục là một nghề tay trái kiếm ăn rất khá của dân chúng trong vùng rừng núi chung quanh trại.

                    Vì thế khi vừa nghe 3 tiếng súng báo động cho biết có tù vượt ngục, là mạnh ai người ấy chạy đi săn lùng.

                    Có người còn mang bao tải theo sẵn để bắt được tù là có ngay 30 ký gạo của trại tù thưởng công, mang về cho gia đình ăn bữa cơm tiếp theo.

                    Tôi còn nghe nói ở những trại chỉ có tù hình sự mà thôi thì phần thưởng không đáng gì, nhưng các trại giam tù chính trị miền Nam như trại Thanh Cẩm thì việc bắt được tù vượt ngục quả là niềm mơ ước thường xuyên của dân chúng.


                    https://www.youtube.com/watch?v=LRkKy7pQTJQ



                    Biết như vậy nên chúng tôi quyết định nếu thoát ra ngoài được là phải trốn biệt trong rừng, tránh tiếp xúc với bất cứ một con người nào khi còn trên phần đất quê hương.

                    Điều an ủi là vùng rừng núi hiểm trở này dân cư rất thưa thớt và đa số là người dân tộc thiểu số, những người có truyền thống chịu đựng sự khắc nghiệt của con người và của thiên nhiên.

                    Người dân trong vùng phần đông sống bằng nghề trồng trọt và đốn củi rừng.

                    Những anh tù hình sự cho biết, chung quanh trại và cả đi sâu vào rừng cũng có những nương sắn nương khoai của dân chúng.

                    Có khi họ chỉ trồng xuống rồi phó mặc cho thiên nhiên, tới ngày thu hoạch thì vác mai, vác cuốc vô rừng đào khoai giở sắn mang về.

                    Có khi thu hoạch được khá nhưng phần đông đã bị tàn phá bởi thiên nhiên, bởi thú rừng và nhất là bởi đám tù tự giác hình sự.

                    Dĩ nhiên là khi trù tính kế hoạch vượt ngục và việc mưu sinh thoát hiểm, chúng tôi cũng nghĩ tới các ruộng trồng khoai sắn này.

                    Nếu trường hợp phải trốn xuống sông Mã, chúng tôi phải đề phòng dân đánh cá trên sông.

                    Trại Thanh Cẩm nằm trên vùng thượng nguồn sông Mã nên cá chẳng có bao nhiêu.

                    Về mùa nắng, nước sông rất cạn và chảy lờ đờ có chỗ còn lòi cả đá ở đáy sông lên. Lúc bấy giờ chỉ có loại cá nhỏ như cá mương.

                    Dù vậy khi có mưa, nước sông sẽ dâng lên rất nhanh vì bao nhiêu nước trên rừng đổ xuống.

                    Nếu hôm nào mưa to thì nước sẽ dâng thật cao, cao gần tới bờ sông và nước đổ xuôi dòng mạnh như thác, mang theo cây cối, gỗ lạc, gia súc, có khi cuốn băng cả ghe xuồng nhà cửa của dân chúng ở hai bên bờ sông.


                    https://www.youtube.com/watch?v=c-iS3tDfzts



                    Sau những lần mưa to, sông có nhiều nước và cá mương cũng nhiều, đó là lúc người dân đánh cá hoạt động khá nhiều trên sông.

                    Cá mương là loại cá nhỏ, chỉ to bằng ngón tay, đi từng đàn và tìm thức ăn trên mặt nước.

                    Người dân đánh cá mương phải phối hợp đi trên hai chiếc thuyền, một lớn, một nhỏ.

                    Thuyền lớn một người chèo và một người điều khiển cái vó trước mũi (Vó là tấm lưới có hai càng căng ra), còn thuyền nhỏ có người chèo và một đứa trẻ con ngồi cầm chiếc mõ bằng ống tre.

                    Khi người bên thuyền lớn hạ vó xuống nước thì thuyền nhỏ chèo ra xa trước mũi thuyền nhỏ, trong khi đứa bé cầm mõ ghe gõ lóc cóc, lóc cóc liên hồi để đuổi đàn cá mương chạy vào vó và người bên thuyền lớn cất vó lên.

                    Có những lúc trúng, cũng được khá nhiều cá trong mỗi lần cất vó, nhưng thường thì chỉ được dăm ba con, có khi chẳng có con nào !

                    Vì trại Thanh Cẩm nằm không xa bờ sông Mã bao nhiêu, nên những tiếng mõ lóc cóc của người dân đánh cá mương trở thành âm thanh quen thuộc đối với chúng tôi.

                    Nhất là về đêm, tiếng mõ càng vang xa nghe rõ mồn một, như một điệu nhạc buồn trên sông Mã, lúc nào cũng chỉ có hai nốt: lóc cóc, lóc cóc, lóc cóc!

                    Có những đêm về sáng, tôi nằm trong kiên giam nghe văng vẳng tiếng mõ của người đánh cá mương trên sông, hòa lẫn với tiếng kêu gọi sáng của loài chim rừng lúc nào cũng 4 tiếng đi liền mà anh em tù chúng tôi nghe là chim “bắt cô trói cột, bắt cô trói cột !” .

                    Rồi tới giờ, lại có thêm tiếng cồng trại tập trung phát ra từ thanh sắt gõ vào cái vỏ bom sắt treo bên ngoài cổng trại, đánh thức tù dậy đi lao động.

                    Ba thứ âm thanh đó hòa lại với nhau vọng tới tai người tù biệt xứ, như một bản hợp tấu thật não nề, giữa núi rừng Thanh Cẩm !


                    https://www.youtube.com/watch?v=a_mFb7m0i-Y



                    Song song với chi tiết vượt ngục, chúng tôi cần phải có một thang dây để leo qua bờ tường đá cao 5 thước bao quanh trại.

                    Sở dĩ chúng tôi cần thang dây vì anh Lâm Thành Văn lúc bấy giờ khá yếu, không thể bám dây cột gút để leo lên tường cao như các anh em khác.

                    Một vấn đề được đặt ra là làm thế nào móc được thang dây trên trốc bức tường, trong khi chúng tôi ở khu kiên giam này không “một tấc sắt trong tay” !

                    Lúc đó tôi để ý và thèm đến rỏ dãi, mấy cái móc sắt trong hai quang gánh của Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát dùng để gánh cơm nước lên khu kiên giam và kỷ luật.

                    Đây là một dụng cụ thật lý tưởng để móc đầu thang dây lên trốc bờ rào, nhưng chúng tôi rình mãi mà không thể nào lấy được các móc sắt đó. Sau cùng, chúng tôi phải tìm cách làm một móc sắt theo cách thức của mình.

                    Tôi cho là một sự may mắn khác khi tôi chợt để ý tới đoạn dây phơi quần áo của tù trong sân khu kiên giam ngay trước cửa buồng 1 của tôi.

                    Vì chỉ có khoảng sân này là rộng nhất trong 4 buồng của khu kiên giam Nhà Bằng, nên có chôn hai cái giá gỗ cách chừng 4 thước để căng mấy dây phơi, cho tù nhân phơi áo quần, mỗi lần được đi tắm giặt dưới sông Mã lên.

                    Các dây phơi này thật bệ rạc. Có đoạn bằng dây ny lon, có sợi làm bằng dây điện nhưng có một đoạn làm bằng dây thép gai đã được gỡ bỏ hết gai nhọn. Tôi chú ý đoạn dây thép này.

                    Tôi quyết tâm phải đánh cắp đoạn dây thép này để làm cái móc sắt cho đầu thang dây.

                    Nhưng đánh cắp được đoạn dây thép này cũng không phải là chuyện dễ, vì mỗi lần đi tắm về, chúng tôi phơi quần áo chưa xong là trật tự đã giục vào buồng, có giờ đâu mà ra tay ?

                    Khổ nỗi, chỉ có lúc sau khi tắm đó chúng tôi mới có lý do để “đụng” tới dây phơi giữa sân. Sau cùng, tôi cũng tìm ra được giải pháp.

                    Dựa vào yếu tố tâm lý, tôi biết là chẳng bao giờ có ai để ý tới đoạn dây phơi quần áo của tù trong khu kiên giam làm bằng chất liệu gì. Làm bằng gì đâu có là vấn đề, điều quan trọng là đoạn dây phơi còn đó để mỗi khi tắm giặt có chỗ phơi áo quần là được rồi.

                    Chỉ trừ trường hợp đoạn dây đó mất đi thiếu hụt chỗ phơi mới có người để ý. Nhưng nếu có ai thắc mắc, thì chỉ là những người tu, vì không có chỗ cho họ phơi áo quần, họ phải xin cán bộ cho dây khác. Riêng cán bộ và hai anh trật tự thì để ý làm gì về sợi dây phơi của tù.

                    Nghĩ như vậy nên chúng tôi âm thầm chuẩn bị một sợi dây bện bằng sợi tháo ra từ bao cát, có màu sắc và độ to bằng dây thép gai dùng để phơi áo quần bên ngoài.

                    Sau đó mỗi lần đi tắm về, trong lúc giả vờ phơi áo quần, chúng tôi chia phiên tháo dần hai đầu dây thép và cột hờ lại đừng để cho rơi xuống.

                    Làm thế nào để trong lần cuối cùng, dây thép này sẽ tháo ra thật dễ dàng, và cột dây bằng sợi bao cát thế vào, mà không ai chú ý.

                    Điều quan trọng là trong lần cuối cùng, việc này phải làm cho thật nhanh và tránh sự chú ý của tất cả mọi người khác.

                    Tôi được anh em giao phó công tác chết người này, vì nó là sáng kiến của chính tôi !

                    Một kế hoạch chi tiết “tiền vượt ngục” này đã được 5 người thảo luận kỹ càng, chờ tới ngày đi tắm sắp tới là thực hiện. Tôi đợi chờ trong lo âu !


                    Click image for larger version  Name:	NH%E1%BB%AENG+TR%E1%BA%A0I+T%C3%99+H%E1%BB%8CC+T%E1%BA%ACP+C%E1%BA%A2I+T%E1%BA%A0O+%28Tr%E1%BA%A7n+Gia+Ph%E1%BB%A5ng%29-2.png Views:	1 Size:	816.6 KB ID:	185479

                    Comment


                    • Font Size
                      #145

                      THỬ THÁCH ĐẦU TIÊN


                      Sáng hôm đó là ngày quyết định.

                      Theo đúng kế hoạch cả 5 người chúng tôi, hôm buổi sáng được xuống sông Mã tắm đó, ai cũng mang một ít quần áo đi giặt. Riêng hai người cao nhất trong nhóm là Đặng Văn Tiếp và Lâm Thành Văn còn giặt cả màn nữa!

                      Sau khi đi tắm về, chúng tôi tới bên dây phơi giữa sân trước cửa buồng phơi áo quần như thường lệ. Hôm đó cán bộ võ trang dẫn chúng tôi đi tắm không theo vào sân khu kiên giam, chỉ có hai anh trật tư, đang đi lại lảng vảng, chờ chúng tôi phơi quần áo xong thì lùa vào buồng khóa cửa lại.

                      Vì đã phân công trước, nên trong lúc 4 người bạn giũ áo quần và chăn ra “phơi” để che mắt Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát, tôi lẹ làng cột dây giả vào, và tháo đoạn dây thép, cuộn tròn lại nhét vào người. Tôi hành động nhanh như máy. May mắn làm sao ! Không ai thấy, và sau này cũng chẳng ai biết gì về sợi dây phơi “dỏm” mà tôi đã cột thay vào giá phơi áo quần này.

                      Mang đoạn dây thép “báu vật” về buồng, chúng tôi quấn nhập lại nhiều lần rồi uốn thành cái móc sắt thật lý tưởng cho thang dây.

                      Trong lúc chờ đợi, chúng tôi dấu móc sắt này trong bể nước gần bên cầu tiêu.

                      Sau miếng sắt giẹp, cái móc sắt này là báu vật thứ hai mà chúng tôi có lúc bấy giờ. Điều đáng nói là cho tới lúc đó cha Định vẫn chưa biết gì về hai món “báu vật” này.

                      Chúng tôi đã có móc sắt cho chiếc thang dây, nhưng chính chiếc thang dây lúc đầu tưởng là dễ dàng, nay lại hóa ra vô cùng rắc rối, mặc dù trong kế hoạch vượt ngục, chúng tôi đã dự trù tất cả mọi trường hợp có thể xảy ra.

                      Trong buồng kiên giam lúc đó trống trơn, chỉ có một chỗ duy nhất chúng tôi có thể cất giấu “ món đồ phi pháp ” trước lúc vượt ngục là cái bể nước tối om, nằm kế bên cầu tiêu. Bể này hứng nước mưa từ mái“Nhà Bằng” chảy xuống qua cái lỗ hổng ngay trên miệng bể.

                      Trong mùa khô hoặc lúc trời không mưa, có mấy anh tù trong đội gánh nước cung cấp nước, gánh lên và đổ vào bể từ một cánh cửa bên hông buồng.

                      Thành bể cũng được xây đụng nóc nhà chỉ chừa một lỗ hổng chừng 50 phân vuông có song sắt và cao trên đầu người.

                      Mỗi chiều khi điểm danh và trước khi khóa cửa buồng giam, lần nào cán bộ hoặc trật tự cũng bước vào khu vực cầu tiêu kiểm soát, nhưng chỉ coi có nơi nào bị đào khoét gì không và chẳng bao giờ để ý trong bể nước có gì.

                      Một phần trên miệng bể chỉ có một lỗ vuông nhỏ chắn song sắt, phần khác khu vực này luôn luôn là tối om, muốn nhìn vào bên trong bể nước phải đứng trên một thứ gì kê lên cao và phải dùng đèn bấm mới thấy được.

                      Trong khi đó khi cần giấu thứ gì, chúng tôi thả ngầm dưới đáy hồ, có những đoạn dây cột tua tủa, khi cần thì dùng móc sắt rà kéo lên.

                      Đề phòng trường hợp bị xét buồng hay đổi buồng bất ngờ, chúng tôi đã có thủ sẵn một cái bao cát, bên trong có những hòn đá mà khi đi tắm chúng tôi nhặt về.

                      Nếu thình lình có “động” là chúng tôi sẽ cho tất cả “đồ nghề” vào cái bao cát có dằn đá sẵn để dìm xuống dưới đáy bể nước. Nếu chỉ là khám xét rồi lại vào buồng cũ, thì sẽ vớt bao lên tiếp tục kế hoạch, nhưng trong trường hợp đổi buồng thì coi như là “ ý trời ” .

                      Về sau này vô tình cán bộ phát hiện ra chiếc bao cát đó, cũng chẳng biết là của ai vì đã có biết bao nhiêu lớp tù, đến rồi đi, trong 4 buồng của khu kiên giam Nhà Bằng như một thứ nhà trọ của khách vãng lai này.



                      Click image for larger version  Name:	xma8899-9.jpg Views:	1 Size:	23.9 KB ID:	185809


                      Cho tới một vài ngày trước lễ Lao Động năm đó chúng tôi cũng chưa chắc là kế hoạch có thể thực hiện được, vì trước những dịp lễ lớn bao giờ cũng có cuộc khám xét “nội vụ” và có thể bị xáo trộn tù nhân giữa các buồng trong khu kiên giam.

                      Đây là biện pháp an ninh thông thường. Những dịp khám xét đồ đạc, chúng tôi biết trước, nhưng việc đổi buồng thì không theo một định kỳ nhất định nào.

                      Thông thường thì đổi trước các dịp lễ, nhưng cũng có lúc tự nhiên một người hoặc vài người bị gọi ra chuyển qua buồng khác.

                      Có điều rất lạ, mặc dù tôi đã biết trước những dịp khám xét buồng theo định kỳ nhất định trong năm rồi, nhưng mỗi lần khám xét, mà chúng tôi gọi là “bán chợ trời” đó tôi vẫn cảm thấy lo lắng, chán nản mệt nhọc và gần như muốn bệnh !

                      Sở dĩ gọi là “ bán chợ trời ” vì tất cả “ nội vụ ” của chúng tôi được mang hết ra khỏi buồng, bày từng cụm từng cụm giữa sân và ngồi gần bên đó chờ cán bộ và trật tự tới lục tung hết lên.

                      Nhìn cảnh này, thật không có gì ngán cho bằng. Ai cũng biết là trong tù chật chội và chúng tôi đã phải thu xếp áo quần chăn chiếu và đồ dùng thật gọn gàng mới có đủ chỗ để nằm và sinh hoạt trong buồng.

                      Sau mỗi lần khám xét là lục tung tóe như vậy, có khi hàng tuần lễ sau cũng chưa có thể xếp gọn lại được.

                      Sau khi đã khám xét xong và của ai người ấy ôm trở vào buồng, lúc đó nhìn càng ngán ngẩm hơn !

                      Lúc đó đồ đạc, áo quần chăn chiếu mùng mền, chén bát...vương vãi khắp nơi. Trong lúc đó bao giờ tôi cũng nằm ngửa lên trên đống đồ đạc nhắm mắt một lúc cho lại sức, sau đó mò dậy hút điếu thuốc lào trước khi bắt đầu việc thu xếp lại “nội vụ” !

                      Tôi nhìn các anh em khác và thấy hình như ai cũng có tâm trạng và hành động như tôi lúc bấy giờ. Những cuộc khám trại thông thường là như vậy, nhưng nếu những lần khám trại sau cơn mưa hoặc đang lúc khám mà bị mưa thì càng khốn nạn hơn !



                      Click image for larger version  Name:	zz-thtu-xaothit.jpg Views:	1 Size:	14.2 KB ID:	185810



                      Một điều ngán ngẩm khác nữa trong lúc khám trại là chúng tôi sẽ bị tịch thu hoặc là bị vất đi một số đồ dùng mà chúng tôi đã ra công góp nhặt được.

                      Trong tù thì cái gì cũng quý, cái gì cũng cần dùng và cái gì cũng sẽ có công dụng của nó, từ một mảnh giấy báo, một đoạn dây ni-lông, một cái lon rỉ sét, một mảnh vải rách, một cái hộp nhựa, một bao ni-lông...tất cả đều là của quý .

                      Chúng tôi nhặt những thứ này trong những lần đi tắm, và phải mắt trước mắt sau, mới dám tạt ngang qua đống rác bên ngoài cổng trại để thu hoạch được những thứ đó, nhưng mỗi lần khám trại, cán bộ và trật tự lấy vất đi, không thương tiếc.

                      Trong lần khám trại trước lễ Lao Động năm 1979 đó, chúng tôi càng ngán hơn vì có thể hỏng kế hoạch vượt ngục đã tới hồi kết thúc.

                      Mặc dù chúng tôi chưa có thứ gì có thể bị hồ nghi là chuẩn bị vượt ngục, nhưng có 3 thứ chúng tôi vẫn lo sợ bị phát giác.

                      Trước hết là miếng sắt đã được mài thật bén hơ khói cho đen, và gắn lại trên cánh cửa vào cầu tiêu, thứ nhì là cái móc sắt và cái bao cát dằn đá thả chìm trong đáy hồ nước và thứ ba là số muối khá nhiều của Lâm Thành Văn, mặc dù đã cẩn thận phân tán cho 5 người, mỗi người giữ một ít trong lúc mang đồ đạc ra trong khi khám trại.

                      Vì biết là phải đi một thời gian lâu trong rừng, chúng tôi cố gắng để dành một ít muối ăn đọc đường.

                      Số muối này được bòn mót từ phần muối ít oi của anh Lâm Thành Văn được cấp phát mỗi bữa ăn, vì anh đau dạ dầy không ăn được khoai sắn, nên trại cho ăn cháo trắng và muối.

                      Và dĩ nhiên điều lo sợ cuối cùng là nếu chúng tôi bị đổi buồng thì coi như xong chuyện.

                      Rồi cuộc khám trại trong dịp Lễ Lao Động năm đó cũng qua đi, không có xáo trộn người giữa các buồng.

                      Các tù nhân ở buồng nào về lại buồng đó, để chuẩn bị “mừng”lễ Lao Động.

                      Riêng 5 người trong nhóm âm mưu vượt ngục chúng tôi cũng về lại buồng 1 cùng với cha Định. Thời gian quyết liệt đã tới !

                      Cho tới lúc gần ngày lễ Lao Động rồi mà cha Định chưa biết gì, và chúng tôi đợi sau khi khám trại xong mới bắt đầu làm chiếc thang dây.

                      Khi anh Tiếp và tôi đập các ống bẩu ra lấy thanh tre làm nấc ngang cho thang dây, nghe tiếng động bên trong nhà cầu phát ra, cha Định bên ngoài hỏi vọng vô:

                      - Các người làm gì thế ?

                      Cha Định rất là “bất hòa hợp”với chúng tôi. Ngài luôn luôn gọi chúng tôi là “các người” thay vì tiếng “các anh”. Tôi lên tiếng trả lời :

                      - Bọn này đập ống bẩu ra làm đóm thuốc lào bác ạ !

                      Từ bên ngoài, cha Định nói vọng vào, bằng giọng nói nghe sắc bén như lưỡi dao của người thái thịt :

                      - Này, các người cẩn thận đấy nhé !

                      Chúng tôi ngừng tay và yên lặng nhìn nhau sau câu nói đó.

                      Thật tình tôi không hiểu hai chữ “cẩn thận” mà cha Định vừa nói có ý nghĩa gì ?

                      Nó mang ý nghĩa sự khuyên lơn, sự che chở hay sự đe dọa. Tôi cầu mong cho hai nghĩa trước đúng, nhưng trong lòng tôi bắt đầu áy náy sợ câu nói này rơi vào nghĩa thứ ba !

                      Nhưng dù trong ý nghĩa nào đi nữa, từ đó trở đi chúng tôi rất cẩn thận, tránh gây sự chú ý của cha Định.

                      Như tôi đã nói vì Lâm Thành Văn bị đau dạ dày và yếu nên phải cần thang dây cho anh. Tuy nhiên không làm sao có thể tìm ra dây được. Chúng tôi nghĩ tới áo quần, nhưng áo quần cũng không đủ. Cuối cùng phải dùng chăn xé ra kết lại thành giây.

                      Chúng tôi xé một chăn mỏng xếp lại mấy lớp và may thành những đoạn dây dài.

                      Trong thời gian chuẩn bị vượt ngục tôi đã làm một cây kim khá to bằng cây đinh 6 phân nhặt được lúc đi tắm. Phải mất khá lâu mới mài cây đinh nhỏ lại thành cây kim, tôi dùng đá đập dẹp một đầu và dùng mảnh thủy tinh cứa đi cứa lại cho tới khi thủng lỗ có thể xỏ chỉ qua.

                      Chúng tôi dùng chỉ tháo ra từ bao cát là loại chỉ rất chắc chắn để may các lớp chăn lại với nhau. Sau khi có dây, chúng tôi dùng các thanh tre đập ra từ các ống bẩu cũ làm các thanh ngang của chiếc thang.

                      Ngoài sự chuẩn bị các dụng cụ cần thiết ra, hàng ngày chúng tôi ngồi lại điều nghiên về cách thức đào tường và ước tính thời gian dự trù cho mỗi giai đoạn.

                      Phải nói là không một chi tiết nào mà chúng tôi không dự trù, không bàn tính và không tìm cách giải quyết. Sau khi có thang dây, chúng tôi đã lén cha Định, mang vào cầu tiêu móc thang lên song sắt bể nước và đứng lên nhún, thử độ bền chắc của chiếc thang.

                      Trù tính thì giờ là việc chúng tôi suy nghĩ bàn tính nhiều nhất, phải mất bao nhiêu thời gian cho việc đào tường, bao nhiêu thời gian đào cửa vào hầm chứa phân, ra khỏi hầm chứa phân rồi phải canh chừng cán bộ tuần tra ban đêm như thế nào trước khi leo qua tường rào giữa các khu.

                      Bao nhiêu thời gian để cả 5 người vượt qua được bức tường bao quanh trại và bao nhiêu nhiêu thời gian để vào rừng.


                      https://www.youtube.com/watch?v=-eknXWbiRng



                      Click image for larger version  Name:	zzphamvandong199.jpg Views:	1 Size:	20.4 KB ID:	185808


                      Nói chung những gì chúng tôi có thể nghĩ ra và tiên liệu, chúng tôi đã làm tới mức tối đa. Trong đó việc vượt qua bức tường trại cao 5 thước bên trên có hàng rào kẽm gai được chúng tôi nghiên cứu và phân công thật cẩn thận.[i]

                      Vì 5 người chúng tôi khác nhau về tình trạng sức khỏe, về tuổi tác và sự tháo vát nên kế hoạch chi tiết về việc này được phân chia như sau :[/i

                      Khi ra đi, Đặng Văn Tiếp sẽ thủ chiếc thang dây có thanh tre ngang để leo lên và một đoạn dây thòng ra bên ngoài để tuột xuống, và anh sẽ là người ra ngoài đầu tiên.

                      Kế đó là Nguyễn Sỹ Thuyên, người thứ ba và ở giữa là Lâm Thành Văn, người thứ bốn là Trịnh Tiếu và cuối cùng là tôi.

                      Phân chia như thế vì anh Đặng Văn Tiếp tháo vát và xông xáo nhất, Lâm Thành Văn vì yếu nên cần có hai người bên ngoài và hai người bên trong nâng đỡ.

                      Tôi là người trẻ nhất, ra sau cùng, có nhiệm vụ gỡ thang dây và đoạn dây bên ngoài để phi tang và nếu có gì trục trặc thì tôi còn có thể xoay xở được.

                      Chi tiết thực hiện sẽ như sau :

                      - Ra tới chân tường, Đặng Văn Tiếp sẽ đứng trên vai tôi và anh Trịnh Tiếu, tay cầm thanh tre đã cột sẵn móc sắt trên đầu thang dây, móc vào trụ sắt của hàng rào kẽm gai trên trốc bức tường, và lần theo thang dây leo lên.

                      - Tới đầu tường sẽ cột đoạn dây khác thòng ra bên ngoài tường và bám vào dây đó tuột xuống.

                      - Những anh em khác sẽ theo thứ tự như vậy, cũng leo lên vai Tiếu và tôi rồi bám thang dây leo ra.

                      - Anh Tiếu là người áp chót sẽ đứng lên vai tôi, còn tôi một mình sẽ leo ra sau cùng một cách dễ dàng.

                      Thứ tự đó được nghiên cứu cẩn thận vào những buổi trưa, lúc cha Định không để ý chúng, tôi vào buồng cầu tiêu thực tập công việc leo qua tường này.

                      Comment


                      • Font Size
                        #146

                        ĐỢI CHỜ TRONG ÂU LO !



                        Tôi cảm thấy lúc bấy giờ thời gian đi quá mau. Chưa chi đã tới ngày 1. 5.1979, ngày lễ Quốc Tế Lao Động, một ngày rất quan trọng đối với chúng tôi.

                        Lễ Quốc Tế Lao Động là một ngày lễ được mừng khá lớn trong chế độ cộng sản.

                        Trưa hôm ấy, các tù nhân chúng tôi được ăn một bát cơm trắng, một bát canh và vài ba miếng thịt heo to bằng đầu ngón tay cái. Đó là một trong năm hoặc sáu lần tù nhân chúng tôi được “ ăn tươi ” trong một năm.

                        Trong bữa ăn, năm người chúng tôi cùng ngồi lại bên nhau để nói lên lời thề hứa sẽ nâng đỡ nhau trên bước đường gian nan thử thách sắp đến, sẽ coi nhau như anh em ruột thịt và giúp nhau trong cuộc sống tương lai.

                        Sau đó, chúng tôi nghỉ ngơi và chuẩn bị tinh thần cho công việc quan trọng tối nay.

                        Nói là nghỉ ngơi nhưng thực ra tôi có nghỉ gì được đâu. Nhớ lại trước đây hai tháng, khi ý định vượt ngục từ khu kiên giam này mới được manh nha thành hình, chúng tôi hội ý nhau để chọn ngày lý tưởng là đêm 1 tháng 5. Khi quyết định chọn ngày đó, tôi thấy không có gì phải suy nghĩ. Vì ngoài tất cả yếu tố thuận lợi khác, thì ngày 1 tháng 5 lúc đó hãy còn khá xa, còn đủ thời gian để chuẩn bị.

                        Vả lại từ đó tới ngày thực hiện kế hoạch có thể còn xảy ra nhiều chuyện bất ngờ trong môi trường tù tội vốn có quá nhiều chuyện bất ngờ này.

                        Nếu xảy ra việc đổi buồng, hoặc có một người lạ được đưa vào đây, hay một anh em nòng cốt nào trong số 5 người chúng tôi bị chuyển qua buồng khác hoặc một người bị bệnh bất ngờ hay...Có biết bao nhiêu chuyện bất ngờ có thể xảy ra và cho dù một chuyện nhỏ nhất cũng bắt buộc chúng tôi phải bãi bỏ kế hoạch.

                        Nhưng rồi mọi việc qua đi một cách trơn tru nhẹ nhàng trong thời gian hai tháng qua. Không có ai bị đổi đi buồng khác, cũng chẳng có ai khác vào buồng này.

                        Như vậy việc chuẩn bị đang được tiến hành từng bước với mỗi ngày qua đi gần tới ngày định mệnh của đêm nay.

                        Trước đó chúng tôi vẫn luôn cầu mong ,
                        nếu may mắn cha Định được chuyển đi buồng khác thì không còn gì lý tưởng hơn. Nhưng cầu mong chỉ để cầu mong thôi, làm gì có chuyện quá may mắn như vậy. Thực tình mà nói, tôi thấy tỷ lệ phần thắng trong cuộc vượt ngục này khá thấp so với những vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải.

                        Việc khó khăn hàng đầu là sự có mặt của cha Định. Chúng tôi đang dồn hết sức lực và tâm trí vào một việc làm cực kỳ nguy hiểm như vậy, một sai sót nhỏ cũng có thể mất mạng như chơi, thế mà chúng tôi không dám bàn tán chia sẻ ý kiến với nhau chỉ vì sự có mặt của cha Định.

                        Thậm chí chúng tôi ít khi dám ngồi gần nhau lâu vì sợ cha Định nghi ngờ là có âm mưu gì đây.

                        Nếu gặp phải một người tù nào khác có lẽ sẽ đỡ hơn, đàng này cha Định với tánh tình khinh khỉnh và không hòa hợp được với bất cứ người nào trong 5 anh em chúng tôi thì càng có lý do để chúng tôi đề phòng. Nếu không khéo, cha Định chỉ cần viết một mảnh giấy con, cuốn lại bằng cây tăm búng ra ngoài cho cán bộ tố cáo âm mưu của chúng tôi thì sao ?

                        Chính vì lý do đó, tuy thời gian dài hai tháng trôi qua mà thực sự chúng tôi chưa có thể chuẩn bị sẵn sàng tất cả những gì đáng lẽ phải chuẩn bị và bàn bạc nhau kỹ lưỡng và chi tiết hơn.

                        Vấn đề vô cùng quan trọng là chiếc thang dây, chúng tôi đã làm rồi nhưng chưa được đưa ra thử độ chắc độ bền của các dây vải một cách cẩn thận, chỉ vì cha Định luôn có mặt trong buồng.

                        Ngay cả việc tháo miếng sắt trên cánh cửa mài cho bén, tới việc thực tập tư thế đứng trên vai nhau khi bắt đầu leo qua bờ tường cao 5 thước chung quanh trại, chúng tôi cũng chưa thực hiện được. Còn bao nhiêu thứ khác, chúng tôi cũng làm, cũng thực tập nhưng chưa được hoàn hảo theo ý muốn.

                        Bây giờ, trưa ngày 1 tháng 5 đã tới
                        . Chỉ còn quãng 5 tiếng đồng hồ nữa là chúng tôi sẽ bắt đầu một việc, mà cho dù là thành công hay thất bại cũng không có thể nào dừng lại được.

                        Sau bữa ăn trưa hôm đó, buồng chúng tôi trở nên yên lặng và nặng nề một cách khác thường, mang tính cách u sầu, có vẻ chết chóc nữa. Tâm trạng của nhóm 5 người chúng tôi thì khỏi phải nói. Căn cứ vào những gì đang bồn chồn và lo lắng một cách thật dữ dội trong lòng tôi lúc bấy giờ, tôi có thể suy ra được tâm trạng 4 người kia cũng thế.



                        Click image for larger version

Name:	20190820_PRISON_2000-copy.jpg
Views:	20
Size:	25.7 KB
ID:	186097


                        Riêng về cha Định,
                        kể từ đêm qua khi tôi chính thức thông báo sự việc, tôi thấy cha Định sống trong tình trạng như người bị động kinh.

                        Mặt ngài tái bệch, đôi môi lúc nào cũng run rẩy, mắt nhắm nghiền ngồi yên bất động dựa lưng vào tường trông như hình người bằng sáp. Cái trán của cha Định hói và bóng láng mọi ngày, bây giờ càng căng thẳng ra và trông ngài càng hói nhiều hơn.

                        Kể từ đêm qua tới giờ,
                        cha Định không hề nói với ai trong buồng một lời nào. Ngài ngồi yên dựa lưng vào bức tường sát vách cầu tiêu hướng mặt ra phía cửa cái, suốt từ đêm qua tới nay như một xác ướp. Có lúc tôi có cảm tưởng là cha Định không hề có mặt trong buồng này.

                        Phần ăn của cha Định trong ngày lễ Lao Động vẫn còn để nguyên một chỗ trong góc phòng, ngài cũng chẳng buồn lấy thứ gì đậy cái bát đựng mấy miếng thịt heo kho với nước muối.

                        Những miếng thịt được thái ra bằng con dao cùn, đang nằm chơi vơi trong cái bát nhựa và có váng mỡ đóng ở trên phần có nước. Nhìn những miếng thịt lợn, phần nhiều là bầy nhầy những mở, trên da còn rất nhiều lông cạo không kỹ trông nó xấu xa, dị hợm.

                        Tự nhiên tôi so sánh mấy miếng thịt heo đó với kiếp sống người không ra người của chúng tôi lúc bấy giờ.


                        Có lẽ vì tâm trạng quá bồn chồn lo lắng làm ảnh hưởng tới bộ máy tiêu hóa và tôi cảm thấy như ruột gan đang quặn lên. Phần khác vì bầu không khí trong buồng lúc đó nặng nề, đầy vẻ sầu thảm cộng với gương mặt của từng người trong buồng. Lúc đó tất cả 6 người đều cởi trần mặc quần đùi, trông thật xấu xa, kỳ dị.

                        Ai nấy đầu tóc cũng rối bù vô trật tự, thân thể không còn thịt, để lộ ra những chiếc xương sườn nằm cong queo trên những lồng ngực xẹp lép. Nhìn cảnh tượng đó, rồi lại nhìn miếng thịt heo, trên da còn đầy lông, đang nằm chơi vơi trong cái bát nhựa bạc màu của cha Định, tự nhiên tôi đâm ra buồn nôn.

                        Tôi đứng lên bước vào nhà cầu gục đầu trên cái lỗ to bằng bề tròn chiếc bình thủy đựng nước sôi. Sâu bên dưới có cái sọt đan bằng tre, bên trên có có lót lá chuối tươi.

                        Từ trong nhà cầu bước ra, tôi thầm mong cho thời gian qua nhanh, rồi ra sao thì ra. Sống trong bầu khí quái đản và căng thẳng này, tôi cảm thấy như muốn kiệt sức, mặc dầu tôi biết là chúng tôi phải dùng tới sức lực cuối cùng của cơ thể để đào tường vượt ngục đêm nay.



                        Click image for larger version

Name:	179619607_10161358702650620_4012047438130417141_n.jpg
Views:	18
Size:	116.8 KB
ID:	186099



                        Chung quanh tôi, các anh em mỗi người một tư thế.


                        - Anh Đặng Văn Tiếp đang ngồi xếp bằng tròn ngay giữa cửa sổ trong tư thế tập yoga, mắt hướng ra phía ngoài sân.

                        - Anh Lâm Thành Văn đang lên cơn đau dạ dầy có lẽ do tâm trạng quá lo lắng gây ra và đang ngồi lấy tay xoa bụng.

                        - Anh Trịnh Tiếu đang bận lúi húi với mấy bộ áo quần, có lẽ anh chuẩn bị mặc vào để ra đi, trong lúc anh Nguyễn Sỹ Thuyên đang cẩn thận gạt cái bấc của chiếc đèn nhỏ xíu để sát vào góc buồng, ngay trước cửa bước vào khu vực cầu tiêu và bể nước.

                        Gương mặt người nào người ấy có vẻ rất nặng nề như đeo một tảng đá hàng chục ký lô !

                        Đại Tá Trịnh Tiếu


                        Click image for larger version

Name:	dt_trinhtieu.jpg
Views:	17
Size:	5.7 KB
ID:	186098

                        https://nguyentin.tripod.com/dt_trinhtieu.htm


                        Tâm trạng tôi lúc bấy giờ như một thí sinh đang ngồi chờ chủ khảo phát đề tài thi. Bầu không khí trong buồng lúc này trở nên yên tịnh cách khác thường, ai nấy đều lầm lì ít nói.

                        Thật tình là chúng tôi chẳng có chuyện gì để nói trong lúc này, ngoại trừ thỉnh thoảng ghé miệng nhắc nhau một vài chi tiết trong các phần hành đã được phân công sẵn.

                        Tôi cảm thấy mệt nên bước tới ghé vào tai nói với từng người hãy lo cầu nguyện.

                        Lúc này, mỗi người tùy theo tín ngưỡng của mình, âm thầm cầu nguyện cho công việc đầy nguy hiểm và có tính cách sống chết tối nay. Tôi leo lên bệ, ngồi dựa lưng vào bức tường đối diện với cha Định.

                        Nhìn cảnh cha Định đang ngồi như pho tượng, tay khoanh trước ngực, mắt nhắm nghiền trong một thái độ khổ sở lạ thường làm tôi nhớ lại câu chuyện tối hôm qua.

                        Vì cùng là Linh mục với nhau, tôi được anh em giao cho nhiệm vụ thông báo cho cha Định một ngày trước khi chúng tôi hành động. Mặc dù đây là một công tác tôi thấy thật khổ tâm, nhưng cũng hiểu là các anh khác không ai có tư thế như tôi để làm việc này.

                        Vào khoảng 9 giờ tối hôm qua, ngày 30.4.1979,
                        tôi lấy hết cam đảm bước xuống chỗ cha Định đang nằm dưới lối đi trước mặt để xin xưng tội. Tôi muốn xưng tội để dọn mình sẵn sàng trước khi bắt tay vào làm một công việc rất nguy hiểm và có thể dẫn tới cái chết bất cứ lúc nào.

                        Sau khi xưng tội, tôi báo cho cha Định biết dự tính của chúng tôi sẽ được thực hiện vào tối ngày mai.

                        Tôi biết rằng, dù cha Định không đồng ý, ngài cũng không thể nói ra với bất cứ ai về những gì mà ngài đã được nghe biết trong tòa giải tội, vì đây là một bí mật tuyệt đối thuộc về ấn tín tòa giải tội mà các Linh mục phải giữ, cho dù vì phải giữ bí mật đó mà phải thiệt hại cho bản thân mình, ngay cả trường hợp phải chết để bảo vệ bí mật đó thì vị Linh mục cũng phải chấp nhận.

                        Đây là luật buộc nặng nhất đối với chức vụ Linh mục, không những phải giữ bí mật tuyệt đối về những gì đã nghe biết trong tòa giải tội mà cũng không được nói những lời gì để người khác có thể đoán được những điều đó.

                        Chính vì thế phải hiểu rằng những gì một hối nhân nói với Linh mục trong tòa giải tội là người đó nói với một xác chết !



                        Click image for larger version

Name:	truyen-thong-di-xung-toi-truoc-thanh-le-bat-dau-tu-khi-nao.jpg
Views:	17
Size:	26.1 KB
ID:	186100


                        Sau khi được tôi thông báo tin động trời mà có lẽ từ lâu nay ngài cũng có ý nghi ngờ, cha Định bỗng chốc trở nên bị kích động một cách dữ dội và bắt đầu khóc lớn tiếng.


                        Trong một thái độ hốt hoảng và bấn loạn tâm trí, ngài đi tới đi lui, dọc theo lối đi mà trước đây hai tháng, Đại Tá Hoàng Thanh đã đi trước mặt chúng tôi.

                        Tay chân ngài múa máy liên hồi trên không, rồi lại chống nạnh ngang hông và thỉnh thoảng lại nói bâng quơ :

                        - “ Các người ác lắm ! Các người giết tôi đi ! Các người hãy giết tôi đi !”

                        Vừa nói ngài vừa gật gật cái đầu trong tư thế tuyệt vọng hết cách cứu chữa. Lúc đó năm người chúng tôi yên lặng ngồi nhìn nhau và cảm thông với tâm trạng lo âu sợ hãi của cha Định. Đồng thời cũng rất lo ngại, nếu lúc bấy giờ bên ngoài có cán bộ đi qua, có thể nghe tiếng cha Định đang nói khá to và biết được câu chuyện. May là không có ai bên ngoài lúc đó.

                        Đợi cho cơn xúc động của cha Định lắng dịu xuống, lúc ấy anh Nguyễn Sỹ Thuyên, với tư cách là người lớn tuổi nhất trong số các anh em, lên tiếng xin lỗi cha Định và phân trần với ngài về quyết định chẳng đặng đừng của chúng tôi và mời cha Định cùng tham gia.


                        Tuy nhiên cha Định bày tỏ thái độ từ chối dứt khoát.


                        Chờ khi cha Định đã trở lại bình tĩnh, chúng tôi mời ngài ngồi lại và cùng nhau thảo luận tìm cách thức nào an toàn cho cha Định, tránh cho ngài tội bao che vụ trốn trại. Bàn đi tính lại một lúc lâu, cuối cùng chúng tôi chọn một giải pháp này :

                        Trước khi ra khỏi phòng, chúng tôi giả vờ trói tay nhét giẻ vào mồm cha Định làm như ngài bị chúng tôi uy hiếp, không thể chống cự và cũng không thể kêu la được. Mặc dù đây không phải là một giải pháp hay, nhưng chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn.

                        Sau đó giải tán ai về chỗ nấy để ngủ vì đã muộn, nhưng tôi biết đêm qua chẳng có ai có thể ngủ ngon giấc. Nhất là cha Định chắc là khốn khổ trăn trở suốt đêm qua nên hôm nay, ngày 1 tháng 5, trông cha Định thất sắc, đôi mắt thâm quầng và cái trán hói đã láng hôm nay lại bóng hơn rất nhiều.



                        Click image for larger version

Name:	12038569_738867109551440_600027333379800323_o.jpg
Views:	17
Size:	168.0 KB
ID:	186101


                        Trời càng về chiều, tôi càng cảm thấy nôn nao, ruột gan cồn cào dữ dội.

                        Kể từ lúc bị bắt vào tù trong 4 năm qua,
                        tôi đã quyết tâm vượt ngục 3 lần và đây là lần thứ tư. Lần đầu tiên trong đêm cuối cùng ở trại Gia Ray trước khi xuống tàu ra Bắc. Lần đó tôi và người bạn là Phạm Thế Khải thức suốt đêm trong buồng chờ cơ hội nhưng bên ngoài lính canh nghiêm ngặt khác thường.

                        Lần thứ hai,
                        trên chuyến tàu Sông Hương chở tù ra Bắc, kế hoạch cướp tàu giải thoát tù nhân của chúng tôi phải bãi bỏ vào giờ chót vì cơn bão trái mùa.

                        Lần thứ ba,
                        ở trại Cổng Trời, tôi cùng với anh Tiếp và ba người khác định đào tường vượt ngục qua Trung Quốc nhưng bất ngờ bị đổi buồng chỉ trước đó 10 tiếng đồng hồ nên phải bỏ kế hoạch.

                        Giờ đây, tôi đang ngồi yên chờ đợi giây phút quyết liệt trong lần đi vào cõi chết để tìm cái sống một lần nữa.

                        Mặc dù suốt hai tháng qua chúng tôi đã dồn hết tâm trí vào việc nghiên cứu và chuẩn bị cho đêm nay, nhưng lúc này, chỉ còn mấy tiếng đồng hồ nữa là tới giờ hành động, tôi có cảm tưởng là mọi việc còn quá lỏng lẻo.

                        Dù vậy, cũng không biết phải làm gì hơn trong lúc này ngoài việc dựa lưng vào tường và khoanh tay đợi chờ giây phút hành động. Giây phút đó là lằn ranh giữa sự sống và cái chết.

                        Đó là giây phút của định mệnh và sẽ bắt đầu ngay sau khi cán bộ và trật tự điểm danh xong và ra khỏi khu kiên giam.

                        Trong lúc thần kinh căng thẳng quá, tôi mong cho có tiếng kẻng điểm danh rồi mọi việc sẽ ra sao thì ra. Nhưng đồng thời tôi cũng mong cho thời gian mấy tiếng đồng hồ cuối cùng trong ngày này kéo dài bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

                        Nếu có thể thì kéo dài đến vô tận và không bao giờ có tiếng kẻng điểm danh chiều tối hôm nay !

                        Thì ra, khi con người sắp bước vào lằn ranh của sự sống và cái chết bị giao động cách dữ dội do bản năng sinh tồn gây ra.

                        Đây chính là giây phút mà tôi quyết định phải đi tới, và đi bằng bất cứ giá nào để tìm TỰ DO, dĩ nhiên là chúng tôi đã chấp nhận trả tới cái giá cao nhất cho hai chữ TỰ DO, là cái giá của chính mạng sống mình.

                        Cuối cùng, tiếng kẻng điểm danh ở cổng trại rồi cũng vang lên .

                        Comment


                        • Font Size
                          #147

                          CANH BẠC CUỘC ĐỜI


                          Click image for larger version  Name:	344146594_1647158229080206_1796676788085511181_n.jpg Views:	1 Size:	62.0 KB ID:	186145



                          Thường ngày tôi không để ý gì tới tiếng kẻng điểm danh buổi chiều , nhưng tiếng kẻng hôm nay đã làm tôi rợn người. Tự nhiên tôi bị nổi da gà và tim tôi bắt đầu đập sai nhịp, trong lúc máu dồn nhanh lên mặt khiến tôi choáng váng và mặt mày nóng hừng hực, như củ khoai lang lùi trong đống than hồng vừa được khều ra.

                          Cảm giác này trong đời tôi chỉ mới gặp thấy lần đầu.

                          Kể từ lúc khám trại chiều hôm qua và tất cả 6 người trong buồng 1 của tôi trở lại buồng cũ, chúng tôi mới chắc chắn có thể tiếp tục kế hoạch vượt ngục.

                          Những thứ bất hợp pháp cần thiết cho cuộc vượt ngục như móc sắt... chúng tôi cho chìm xuống đáy bể nước khi mang đồ đoàn ra sân khám xét đã được vớt lên.

                          Chiếc thang dây được ráp nối cho thành hình và không sợ còn bị khám buồng bất ngờ nữa.

                          Những thứ " quốc cấm " đó giờ này đang được cuộn tròn và giấu trong các túi, dùng làm gối đầu của tôi. Riêng miếng sắt giẹp treo lủng lẳng trên cánh cửa vào khu nhà cầu vẫn nằm yên tại vị trí cũ. Nếu có ai nhìn thoáng qua một cách vô tình sẽ không thể nào nhận ra được sự khác biệt nơi miếng sắt hiền lành vô tội đó.

                          Thực sự nó đã khác đi rất nhiều.

                          Kể từ hôm anh em tôi hì hục tháo được miếng sắt ra và mài nhọn rồi gắn lại chỗ cũ, không hiểu tại sao lúc nào cặp mắt của tôi và của các “ thủ phạm ” khác cũng dán vào miếng sắt, nhất là trong các giờ điểm danh ban chiều.

                          Có những lần mấy anh trật tự hoặc cán bộ vào điểm danh mà vô tình dừng lại nhìn vào cánh cửa có miếng sắt đang treo lơ lửng là tim tôi gần như ngừng đập, và nghe lùng bùng trong lỗ tai.

                          Ngay cả lúc ban ngày không có ai lên kiểm soát nhưng chúng tôi cũng hay liếc nhìn miếng sắt, làm như thể nếu không nhìn sẽ bị người ta ăn trộm mất báu vật đó.

                          Chiều nay, cũng như thường lệ, sau khi nghe tiếng kẻng, chúng tôi ngồi thành hàng ngay ngắn trên bệ nằm, chờ cán bộ và trật tự vào điểm danh. Lúc đó tôi nghe trong bụng ruột gan bị cồn cào dữ dội, cảm thấy mệt gần như mất thở.

                          Tôi liếc nhìn qua cha Định lúc đó cũng đang ngồi yên trong hàng ngang, như tư thế thông thường hàng ngày ngồi chờ điểm danh.

                          Điều làm tôi lo lắng là mặt mày cha Định lúc đó trắng bệch ra như người bị thương hàn vừa mới bình phục. Vì đêm qua tôi đã báo cho cha Định tất cả thời giờ và cách thức vượt ngục, nên lúc này tôi lo sợ rủi ro cha Định vì quá khiếp đảm và đợi lúc cán bộ vào điểm danh chiều nay sẽ tố cáo thì sao !

                          Có tiếng các xâu chìa khóa khua rổn rẻng bên ngoài, rồi cửa vào khu kiên giam mở ra. Mọi việc diễn ra một cách bình thường như mọi ngày, không có dấu gì khác la.

                          Mặc dù ngày mai là ngày lễ nghỉ, có thể trại sẽ tăng cường biện pháp an ninh kỹ lưỡng hơn, nhưng tôi rất mừng khi thấy mọi việc diển ra bình thường.

                          Tôi ngồi thầm thì cầu xin ơn trên phù hộ cho đừng có chuyện gì xảy ra trong giây phút quyết định cuối cùng này. Tôi biết rằng chỉ cần một trục trặc nhỏ cũng sẽ có hậu quả khốc liệt không thể lường được.

                          Mấy anh em trong nhóm tôi chắc lúc đó cũng có tâm trạng như tôi nên nhìn ai nấy cũng ngồi trang nghiêm chỉnh tề như những vị thánh sống, ai nhìn vào thấy cũng thương.

                          Chỉ có điều khác là khi tôi liếc nhìn qua hai bên, tôi cũng bắt gặp những con mắt của các vị " thánh sống đó, ngồi yên như các pho tượng, cũng cuốn tròn tròng mắt sát vào đuôi mắt nhìn tôi ! Cái cảnh những bức tượng gỗ đang liếc nhìn ngang như vậy, nếu có ai đem vẽ thành tranh chắc trông sẽ rất buồn cười.



                          Click image for larger version  Name:	7cong-troi-quang-ba-vntrip.jpg Views:	1 Size:	43.3 KB ID:	186146


                          Hai anh trật tự Bùi Đình Thi và Trương Văn Phát chạy vụt vào sân, mắt láo liên, tay cầm cái búa bằng gỗ có cán dài gõ nghe côm cốp vào tường xem coi có chỗ nào bị đào, và gõ vào các song sắt cửa sổ coi có nơi nào bị cưa hay bị phá hoại gì không.

                          Vì ngày nào cũng phải đối diện với hai anh trật tự ác ôn này, nên tôi nhớ hình ảnh, cách ăn mặc, cách đi đứng của hai anh này rõ ràng như hình xâm trổ trên thân thể.

                          Một điểm đặc biệt mà tôi ghi nhận là hai anh trật tự này không bao giờ nhìn thẳng vào mắt của ai trong đám tù khu kiên giam.

                          Nhưng
                          khi hai anh này đã nhìn thẳng vào mắt ai, là người đó gặp chuyện lôi thôi. Nhẹ nhất cũng vài lời mắng chửi và nặng hơn là vài cú đấm, hoặc hơn thế nữa.

                          Cán bộ đi điểm danh hôm đó tên là Hạ. Anh là người ít nói, nước da ngăm đen, có nhiều vết lang ben trên mặt và cổ. Cán bộ Hạ đứng ngoài cửa buồng nhìn vào, Trương Văn Phát đã chạy trước qua buồng bên để gõ búa dọn đường, chỉ có Bùi Đình Thi đi vào kiểm soát trong nhà cầu của buồng chúng tôi.

                          Tôi nín thở hồi hộp và cầu trời cho Thi đừng để ý tới miếng sắt đeo tòn teng trên cánh cửa nhà cầu, vì nếu để ý quan sát sẽ thấy miếng sắt giẹp này có cái gì không bình thường.

                          Nếu Bùi Đình Thi phát giác ra miếng sắt này, chẳng những kế hoạch vượt ngục đổ vỡ trước lúc bắt đầu, mà chúng tôi chắc chắn sẽ bị rắc rối to. Mặc dù lúc bấy giờ nếu bị phát giác miếng sắt đã mài bén, chúng tôi đã có câu trả lời là không biết và sẽ nói là ai đó đã mài từ trước khi chúng tôi vào buồng này.

                          Cũng may là Bùi Đình Thi chỉ làm các công việc như thường ngày và không để ý tới cái đầu miếng sắt trên cánh cửa vào nhà cầu đã mỏng và nhọn hơn nhiều !

                          Lúc này trong buồng, không phải chỉ có miếng sắt mài bén, mà còn chiếc thang dây đã hoàn thành có móc sắt hẳn hoi được bó lại như cái gối đang nằm sau lưng tôi. Nếu vì lý do gì mà chiếc thang dây này bị phát hiện ra thì cho dù...trời cũng không cứu được chúng tôi đừng nói chi tới người phàm !

                          Điểm danh xong, cán bộ Hạ và hai trật tự Thi - Phát ra khỏi vòng rào của khu kiên giam. Giờ hành động đã tới !

                          - Điềm chẳng lành : tắt đèn !



                          Click image for larger version

Name:	180089913_10161358472270620_4774669313904292044_n.jpg
Views:	17
Size:	114.6 KB
ID:	186154


                          Theo đúng kế hoạch, sau khi cán bộ và hai anh trật tự vừa khuất dạng, tôi lẹ làng bước xuống để tháo miếng sắt đã được cài lại một cách hờ hững trên cách cửa vào nhà cầu. Khi tôi vừa với tay kéo cánh cửa để tháo miếng sắt thì một việc bất ngờ xẩy ra:

                          - Hơi gió tạo ra bởi việc kéo cánh cửa làm tắt ngọn đèn ! Chuyện này chưa bao giờ xẩy ra trong buồng từ trước tới nay !

                          Đây là cái đèn dầu nhỏ làm bằng lọ thuốc Penicilin mà lúc nào cũng được chúng tôi chăm sóc cẩn thận và để sâu vô góc tường, ngay lối vào nhà cầu. Trong suốt thời gian ở buồng này, có lúc ngọn đèn này cũng bị tắt nhưng không phải vì lý do đóng hoặc mở cửa nhà cầu mà vì thiếu dầu.

                          Buồng tôi được cấp phát một lượng dầu tối thiểu dùng thắp ngọn đèn, để ban đêm cán bộ làm nhiệm vụ canh gác có thể thấy được các tù nhân trong buồng sau khi đèn điện trên trần tắt lúc 10 giờ đêm.

                          Phần chúng tôi cũng hết sức bảo vệ nó để có lửa hút thuốc lào. Để cho chắc ăn, chúng tôi giao cho anh Nguyễn Sỹ Thuyên là tay nghiện thuốc lào nặng, cần có lửa trong buồng nhất, lo việc trông nom ngọn đèn, và từ trước tới giờ tôi để ý anh Thuyên chăm sóc ngọn đèn như chăm sóc con ngươi trong mắt anh.



                          Click image for larger version

Name:	95361033_3669988269694560_4858884321437548544_n.jpg
Views:	17
Size:	85.8 KB
ID:	186155


                          Theo quan niệm thông thường của người đời, đèn bị tắt là một điềm gở, nên lúc đó cả năm người ngồi lặng yên nhìn nhau, lòng đầy lo ngại.


                          Riêng tôi, mặc dù trong lòng bất an, nhưng tự an ủi mình rằng, có thể vì vội vàng, tôi đã kéo cửa nhà cầu mạnh tay và tạo ra hơi gió làm tắt đèn, có thế thôi, chẳng có gì phải lo ngại.

                          Khi đó tôi để ý thấy sự lo ngại và sợ sệt hiện rõ trên mặt vài anh em, nhất là Lâm Thành Văn. Từ chiều tới giờ thỉnh thoảng Văn kêu đau vì chứng bệnh dạ dầy tái phát mạnh do ảnh hưởng sự lo lắng quá độ.

                          Thấy tắt đèn, Văn bước xuống ngồi gần bên tôi lo lắng hỏi :


                          - Anh Lễ ơi ! Đèn tắt, đêm nay không thấy đường làm sao đào tường?

                          Mặc dù nói thế nhưng tôi biết trong lòng Văn lo chuyện khác. Vấn đề mang tính cách duy tâm là việc hên xui, may rủi trước hiện tượng tắt đèn, nên tôi đáp.

                          - Không sao đâu anh, mình sẽ kéo lửa và đốt đèn lại. Có thể chậm một chút nhưng sẽ làm được. Còn việc tắt đèn chẳng qua tôi vô ý kéo cánh cửa mạnh quá tạo ra hơi gió thôi, chẳng có gì đáng quan tâm đâu.

                          Anh Thuyên chen vào :

                          - Bằng mọi giá mình phải tiếp tục thôi các ông ạ ! Mọi thứ đã chuẩn bị hết cả rồi, nếu không đi thì giấu vào đâu? Tình thế này không thể dừng được nữa.

                          Trong khi đó Đặng Văn Tiếp vội vàng lục tung túi đồ nghề dùng để kéo lửa ra, và chúng tôi không chậm mất một giây, lo việc hì hục kéo lửa, theo cách thức tay không lấy lửa mà tôi học được trong tù.

                          Đó là dùng một bánh xe bằng dáy của hộp sữa, đục 2 lỗ nhỏ ở giữa để xỏ dây qua và kéo cho xoay tròn. Khi bánh xe xoay hết vòng tròn sẽ theo đà dây kéo mà xoay ngược lại, cứ thế lúc nào bánh xe cũng quay tít rất nhanh. Khi đó cho cạnh bánh xe chạm nhẹ vào một vật bằng sứ, là cái khu bát.

                          Khi bánh xe kim loại quay tít chạm vào khu bát sẽ bắn ra những tia lửa, có một miếng [b][size=4][color=black][i] “bổi” sẳn để hứng những tia lửa đó.

                          Miếng ” bổi” là phần than tro của một miếng vải đã đốt cháy và đè cho tắt ngay, phần than tro còn dính trên đầu miếng vải sẽ bắt dính các tia lửa rất nhạy.

                          Chúng tôi chuẩn bị sẵn vài ba miếng bổi này, được gói cẩn thận trong bao ny-lon cho khỏi bị ẩm ướt. Trong tù tôi đã học được những kỹ thật loại mưu sinh thoát hiểm mà người sống bình thường ngoài xã hội không bao giờ biết được. Trong đó, có kỹ thuật tay không lấy lửa.

                          Mặc dù tôi đã chuẩn bị những đoạn dây se lại từ những sợi dây dù chắc chắn tháo ra từ ruột áo giáp, nhưng vì hối hả tôi làm đứt gần hết các đoạn dây xỏ ngang qua lỗ đục giữa cái bánh xe kim loại là đáy của hộp sữa đặc có đường.

                          Tình cảnh chúng tôi lúc bấy giờ như cây tên đã lắp vào dây cung kéo thẳng, chỉ còn có cách buông ra mà thôi ! Các việc khác phải hoãn lại để lo kéo lửa.

                          Bình thường tôi kéo lửa không khó lắm , chỉ cần vài phút là xong. Nhưng lúc này vì quá lo âu và cố gắng làm cho nhanh nên tôi lại càng trở nên vụng về và kéo lửa mãi không được.

                          Càng không kết quả tôi càng luống cuống, càng luống cuống tôi càng không kết quả ! Tôi biết là lúc bấy giờ một phút qua đi có nghĩa là mạng sống chúng tôi bị thu ngắn lại. Trong khi hì hục kéo lửa, đầu óc tôi nóng ran như muốn bốc khói. Hai tai nghe lùng bùng, da mặt nghe rát và gần như không còn cảm giác bén nhạy như lúc bình thường.

                          Những đoạn dây đầu đã tơi tả và đứt quãng nhưng vẫn chưa lấy được lửa làm tôi chết điếng cả người. Cuộc vượt ngục thành công hay thất bại một phần lớn cũng tùy thuộc vào việc tôi có lấy được lửa hay không và lấy được sớm hay muộn !

                          Khi xỏ luồn sợi dây cuối cùng vào lỗ miếng sắt, tự nhiên tay tôi run nhè nhẹ vì nếu đoạn dây cuối cùng này bị đứt nữa thì coi như cuộc vượt ngục bắt buộc phải hủy bỏ và hậu quả sẽ không lường được. Tôi âm thầm cầu nguyện.

                          Trong lúc đó cha Định vẫn đang ngồi dưới lối đi, chỗ ngài nằm ngủ hàng đêm, vì ở đó rộng rãi thoải mái hơn trên bệ nằm chật chội khó xoay trở.

                          Cha Định ngồi dựa lưng vào cánh cửa buồng bằng sắt trong tư thế yên lặng chẳng nói một lời trong khi nhóm mấy người chúng tôi cũng đang ngồi dưới đường đi nhưng sát ở cửa vào cầu tiêu và chấu đầu vào nhau trong việc kéo lửa.

                          Riêng Nguyễn Sỹ Thuyên đã được phân công ngồi ngay cửa sổ nhìn ra sân để nếu có cán bộ bước vào sân khu kiên giam thì lên tiếng :

                          - “ Chào cán bộ ” thật to để báo động cho anh em chúng tôi biết kịp thời.

                          May làm sao, tôi lấy được lửa trong lần cố gắng với đoạn dây cuối cùng này. Tất cả chúng tôi thở phào nhẹ nhõm khi nghe mùi khói bốc ra từ miếng bổi và sau đó tôi đã thổi lên thành ra lửa ngọn để thắp đèn. Chúng tôi vượt qua được trở ngại đầu tiên khi thắp đèn lại được nhưng phải trả giá bằng một lượng thời gian vô cùng quý báu trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.

                          Trong lúc cẩn thận nâng niu cái đóm để thắp đèn khi đó tôi nhớ tới câu nói :

                          - “ Thời giờ là tiền bạc ”. Lúc này thời giờ đối với tôi còn quý gấp trăm triệu lần hơn tiền bạc.

                          Tôi nói lẩm bẩm :“ Thời giờ là mạng sống ” .



                          Click image for larger version

Name:	272959806_10162053559280620_1382416197776234287_n.jpg
Views:	17
Size:	104.1 KB
ID:	186156

                          Comment


                          • Font Size
                            #148

                            MŨI DAO ĐỊNH MỆNH




                            Chúng tôi giao cái đèn cho anh Thuyên và dặn anh bằng mọi giá phải bảo vệ ngọn lửa vì một khi đã bắt tay vào việc rồi thì ngọn đèn là vấn đề sống còn.

                            Chúng tôi kéo vào bên trong để bắt đầu công việc trong tình trạng thần kinh căng thẳng tột cùng vì biết là một khi đã bắt đầu đào tường rồi, sẽ không thể nào dừng lại được.

                            Lúc bấy giờ cha Định ngồi lặng thinh, dựa tường, nhắm nghiền mắt lại. Trong lúc chúng tôi vào phía bên trong thì may mắn thay, trời bắt đầu đổ mưa, và cơn mưa càng lúc càng to như thể trời đang đứng về phía chúng tôi.

                            Trời mưa sẽ giúp chúng tôi ba điều kiện thuận lợi.


                            Trước hết là có nước để tưới vào gạch làm cho vôi vữa mềm ra lúc đào tường.

                            Thứ nhì, tiếng mưa sẽ át tiếng động lúc đào tường và cho dù có cán bộ đứng bên ngoài buồng cũng không thể nghe được vì có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể từ cái lỗ trên nóc nhà bằng.

                            Nhưng yếu tố cuối cùng quan trọng nhất vì mưa to, cán bộ sẽ lười biếng và ít đi tuần trên khu nhà Bằng chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu việc đào tường.

                            Vai trò của từng người được phân chia rõ ràng.


                            Anh Tiếp và tôi sẽ thay nhau đào tường và lấy gạch ra, vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc khá hẹp nên chỉ đủ cho một người ngồi ở đó để đào tường.

                            Anh Tiếu và anh Văn lo việc thòng dây múc nước trong bể chuyền cho tôi giội lên chững chỗ đang đào. Anh Thuyên đang ngồi bên cửa sổ nhìn ra sân buồng, canh chừng cán bộ, và giả vờ hát nghêu ngao để lấn át tiếng đào tường sột soạt bên trong.

                            Miếng sắt dụng cụ đã được tôi tháo ra khỏi cửa, được quấn vải thật dầy phía cuối để làm cái cán.

                            Mặc dù đã được quấn vải khá nhiều lớp nhưng khi cầm vào cũng không có thế như cầm con dao hoặc cái đục có cán bằng gỗ hẳn hoi, nhưng trong tình thế đó, như vậy đã quá tốt rồi.

                            Anh Đặng Văn Tiếp là người đào nhát đầu tiên. Trước khi ấn mũi sắt nhọn vào bức tường, anh Tiếp quay lại nói với tôi, đang ngồi cầm lon nước kế bên bằng một giọng thật căng thẳng và đầy lo âu:

                            - Đây là mũi dao định mệnh, cậu Bảy nhé !

                            Tôi nhìn anh gật đầu và nói :

                            - Cầu xin Đấng Thiêng Liêng phù hộ cho anh em mình !

                            Nghe nói xong câu đó, anh Tiếp ấn mạnh mũi dao định mệnh khoét sâu dần vào bức tường nhơ bẩn của trại tù Thanh Cẩm.

                            Bức tường của trại tù giam hãm sự tự do của chúng tôi một cách phi lý và dã man.
                            Trong lúc đó tôi biết mũi dao định mệnh này một khi đã thọc sâu vào tường sẽ không bao giờ có thể dừng lại được và cuộc đời chúng tôi, tương lai chúng tôi và cả mạng sống chúng tôi nữa cũng đang đi theo với mũi dao định mệnh này.

                            Bất giác tôi nhớ tới giờ này bên ngoài xã hội cũng đang có biết bao nhiêu đồng bào tôi cũng đang thọc mũi dao định mệnh vào bức tường vô hình giam hãm cả một dân tộc bằng hành động vượt biên trốn khỏi một nhà tù lớn hơn !

                            Những đồng bào vượt biên đó và 5 anh em tôi ở trong đây đều hành động vì một mục đích giống nhau, chúng tôi muốn tìm TỰ DO, dù có phải trả giá TỰ DO bằng cái chết chúng tôi cũng sẵn sàng để trả tới giá.

                            Chỉ có một điều khác là các đồng bào vượt biên tìm tự do bên ngoài có thể đừng chân lại khi thấy không an toàn, còn tình cảnh chúng tôi ở trong tù vào lúc này không thể nào dừng lại được nữa.

                            Đã phóng lao chúng tôi phải theo lao.



                            https://www.youtube.com/watch?v=VGXHjtuLHeM



                            Anh Đặng Văn Tiếp đang dồn hết sinh lực và sự khéo léo của con người anh vào việc đào tường. Đôi tay anh hoạt động lanh lẹ như con chuột đang đào hang.

                            Mãnh sắt nhọn trong tay anh làm việc cật lực như một lưỡi cưa máy, khi thì đưa lên khi thì kéo xuống , khi thì rạch vào các khe xi măng giữa hai hòn gạch, khi thì cố lòn sâu vào giữa khe để moi những hòn gạch ra.

                            Nhờ có tiếng nước mưa đang chảy ầm ầm vào bể, chúng tôi càng yên tâm hơn để đào.

                            Bầu khí lúc đó yên lặng khác thường, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng nước chảy từ mái nhà xuống bể và tiếng thở hồng hộc của anh Tiếp.

                            Anh Tiếp cắm cúi đào điên đào dại, đào sống đào chết, đào với tất cả sức lực và ý chí của con người anh.

                            Anh Tiếu và anh Văn đứng cạnh bể nước thòng dây kéo từng lon nước lên chuyền cho tôi để tưới nước vào các chỗ Tiếp đặt mũi sắt nhọn vào. Bốn người chúng tôi hợp lại thành một “bộ máy đào tường” đang hoạt động hết tốc lực.

                            Lúc này còn ánh điện của cái bóng điện tròn trên trần phòng giam và ánh sáng lọt vào cầu tiêu qua cánh cửa mở. Nhờ có ánh sáng, chúng tôi đào tường khá thuận tiện, nhưng phải làm cho nhanh, đào được càng nhiều càng tốt vì đèn điện sẽ tắt sau 10 giờ đêm, chừng đó mọi việc sẽ khó khăn hơn với chiếc đèn dầu leo lét chỉ to bằng ngón chân cái.

                            Vì chỗ ngồi để đào là một cái hốc hẹp, chỉ đủ chỗ cho một người, và anh Tiếp đang ngồi đó, tôi đứng ngay sau lưng anh, khom người giúp rút từng hòn gạch ra.

                            Được một lúc, tôi để ý thấy trên viên gạch toàn là máu tươi đỏ thẫm. Tôi nhìn xuống tay anh Tiếp, thì ra các mảnh vải quấn vào cán miếng sắt giẹp đã rách nát ra và cạnh của thanh sắt cứa đứt tay anh Tiếp chảy máu ròng ròng mà anh không hề hay biết. Tôi vỗ vai Tiếp nói:

                            - Anh ! tay anh đổ máu rồi ! Dừng lại ! Dừng lại ! Em vào thay cho !

                            Anh Tiếp vẫn cắm cúi đào và hỏi lại:

                            - Cậu bảo cái g ì?

                            - Tay anh bật máu ra kìa anh không thấy à ? Nhìn tay anh kìa.

                            Nghe tôi nói, anh Tiếp nhìn chỗ tay cầm miếng sắt. Anh dừng tay, đặt miếng sắt xuống và xòe bàn tay phải ra. Bàn tay anh đã rách nát và đầy máu me tự lúc nào. Anh ngoái đầu ra phía sau bảo tôi :

                            - Cậu Bảy! Đưa cho anh thêm vải để bó cán dao, vải này rách nát ra cả rồi.

                            Tôi đáp :

                            - Anh ngừng tay nghỉ chút đi.

                            Anh Tiếp gắt tôi :

                            - Thì cậu lấy thêm vải mang lại đây, nhanh lên, nghỉ sao được mà nghỉ ?

                            Nói xong, anh quấn sơ lại mảnh vải đã rách tả tơi ở cán miếng sắt giẹp và tiếp tục đào.

                            Tôi rời chỗ anh và trở ra ngoài vớ được chiếc áo hay chiếc quần gì của ai tôi cũng không để ý, vội vàng xé những mảnh vải dài, bề ngang chững 5 phân như những cuốn băng của các y tá và mang ngay vào trong cầu tiêu, lúc đó Tiếp vẫn đang hì hục đào.

                            Tôi buộc lòng phải nắm áo anh kéo đứng dậy để anh nghỉ, trong khi tôi bó vải vào cán miếng sắt và sau đó vào thay anh.

                            Anh Tiếp đứng lên sau một lúc đào khá lâu. Lúc này trông anh phờ phạc, mệt nhọc và nhất là bàn tay phải của anh máu chảy đầm đìa lẫn vào với đất cát và vôi vữa trông rất thương tâm và thảm hại.

                            Tôi bảo Văn lấy lon nước giội rửa tay cho Tiếp trong lúc tôi quấn thêm vải vào cán miếng sắt. Lần này thì tôi quấn nhiều hơn. Sau đó, anh Tiếp và tôi thay đổi vị trí cho nhau và công việc đào sống đào chết lại tiếp tục.



                            Click image for larger version

Name:	277811618_1020438801906402_4779453920577840396_n.jpg
Views:	16
Size:	64.1 KB
ID:	187734


                            Việc đào bức tường khó khăn hơn chúng tôi tưởng. Tường được xây bằng xi-măng già, rất cứng. Chỗ ngồi lại là một góc hẹp, khó xoay trở và chỉ vừa đủ chỗ cho một người, vì thế một người đào thì ba người phải đứng phía sau lo các việc khác chứ không thể cùng ngồi xuống để tiếp tay được.

                            Nhưng cho dù có đủ chỗ cho hai người cũng không làm gì hơn trong khi chúng tôi chỉ có một dụng cụ duy nhất là miếng sắt giẹp có đầu nhọn. Thực ra, chúng tôi cũng có 1 cái muỗng bằng nhôm nhưng không thể dùng được với loại tường cứng như thế này.

                            Trong hoàn cảnh đó, bốn người thi nhau hì hục đào và đào với tất cả sức lực của con người.

                            Miếng sắt dùng để đào tường mặc dù đã quấn vải vào để cầm nhưng chẳng bao lâu vải lại bị rách, lòi cạnh mảnh sắt ra và cứa rách da thịt tay chúng tôi làm máu đổ ra lai láng.

                            Mặc dù vậy, chúng tôi cũng cắm đầu cắm cổ mà đào, người này mệt thì người kia vào thay không ngơi nghỉ một giây phút nào vì thì giờ lúc đó chính là mạng sống.

                            Kẻ đào tường, người ngồi bên giội nước cho mềm xi-măng, người khác thòng dây lấy nước từ bể nước. Chúng tôi hoạt động đều đặn và hết tốc lực như một nhà máy sản xuất xe hơi theo hệ thống dây chuyền, sản phẩm được chuyền từ khâu này sang khâu khác và thành quả cuối cùng là những viên gạch ương ngạnh được chúng tôi móc ra khỏi bờ tường và vất ngổn ngang trong căn buồng chật chội.

                            Dù sao chúng tôi cũng gặp một điều may mắn là trong khi đang đào tường thì bên ngoài trời đổ mưa xối xa. Vì mưa to nên cán bộ canh gác càng lười biếng lên tuần tra trên khu kiên giam, nhất là ban ngày các anh đã chè chén say sưa. T

                            hật vậy, suốt trong đêm, không có bóng dáng một cán bộ nào bước vào khu kiên giam và anh Thuyên cứ ngồi hát nghêu ngao bên trong cửa sổ mà chưa phải sử dụng tới cái khẩu hiệu “chào cán bộ” lần nào.

                            Trong khi chúng tôi đào tường, có tiếng đấm vào tường của các anh em bên các buồng khác, như thế là việc đào tường ở buồng này, các buồng bên đều biết. Các tiếng đập tường có ý nhắc nhở chúng tôi làm khẻ thôi vì ở các buồng bên đều nghe biết.


                            Chúng tôi thỉnh thoảng nghe các tiếng ám hiệu đó nhưng không quan tâm vì lúc bấy giờ chúng tôi chẳng còn tâm trí đâu mà để ý các tín hiệu đó. Việc quan trọng vào bậc nhất là đào tường, đào càng nhanh càng tốt, đào nhanh thì sống, đào chậm thì chết. Có thế thôi.

                            Thỉnh thoảng tôi bước ra và thấy đồ đạc trong buồng bị vất ngổn ngang và bề bộn như một đống rác thành phố.

                            Vì chúng tôi đã chấp nhận ra đi nên chẳng còn bận tâm đến khung cảnh trong buồng nữa, mặc nó muốn ra sao thì ra.

                            Cha Định lúc đó ngồi dựa lưng vào tường, ngước mặt lên trần nhà, mắt nhắm nghiền, đôi môi luôn mấp máy. Tôi đoán là ngài đang đọc kinh cầu nguyện và có lẽ cầu cho chính ngài nhiều hơn là cho chúng tôi.

                            Về phần tôi, lúc bấy giờ chẳng còn tâm trí đâu để mà cầu nguyện nữa !

                            Thực ra, những gì tôi cầu xin ơn trên phù giúp thì tôi đã cầu nguyện từ mấy tháng nay.

                            Lần cuối cùng tôi cầu nguyện cách khẩn khoản là lúc tôi dùng đoạn dây dù cuối cùng để kéo lửa cách đây mấy tiếng đồng hồ. Và lần đó thì lời cầu xin của tôi được ơn trên phù giúp, cuối cùng tôi đã lấy được lửa .


                            Click image for larger version

Name:	278329538_1020440355239580_601578067096456253_n.jpg
Views:	15
Size:	67.3 KB
ID:	187735

                            Comment


                            • Font Size
                              #149

                              CÁI GIÁ CỦA TỰ DO



                              Sau khi phá bật cánh cửa hầm chứa phân để có thể ra đi, chúng tôi vội vàng chui trở lại vô buồng để lấy thang dây và các vật dụng cần thiết.

                              Cả ba chúng tôi leo trèo nhanh như khỉ. Có lúc tôi nghĩ có lẽ khỉ cũng không thể nào lanh lẹ hơn tôi lúc bấy giờ. Vì đứng bên dưới chồm lên không cách gì thót lên tới cái lỗ hổng vừa đào nên chúng tôi phải cõng nhau lên cho vừa tầm mới có thể chui trở lại vào buồng và người cuối cùng là tôi đưa hai tay cho người bên trong nắm lấy kéo lên.

                              Dĩ nhiên, khi kéo như thế, tôi sẽ bị rách da bụng nhưng cho dù là rách một mảnh da bụng, hay một chục mảnh da bụng đi nữa, cũng có là gì, so với cái viễn tượng về một trận đòn hội chợ nếu chúng tôi bị bắt lại.

                              Khi trở lại vào buồng, chúng tôi thấy anh Thuyên và Văn đã sẵn sàng và đang ngồi đợi.

                              Tôi vội chụp lấy những thứ gì đã sắp đặt sẵn cho vào túi. Để việc đi đường gọn nhẹ, chúng tôi bảo nhau không ai mang theo thứ gì, nhưng mỗi người mặc vào người vài ba lớp quần áo để có mà dùng trên đường đi.

                              Phải làm thế nào để hai tay được rảnh rang vì còn phải leo qua tường và nhất là phải thật gọn nhẹ trong lúc trốn chạy trong rừng, hoặc nếu phải lội xuống dòng sông Mã.

                              Buồng giam chúng tôi mọi ngày vẫn ngăn nắp, gọn gàng nhưng lúc này trở bề bộn như một đống rác, ướt đẫm những nước nôi, đất cát và dơ bẩn như cái chuồng heo, nhìn vào thấy mà khủng khiếp.

                              Trước lúc rời buồng ra đi, chúng tôi tới chào từ giã cha Định, lúc bấy giờ đang ngồi dưới đất và khóc nức nở. Lòng tôi đau xót khi nhìn thấy cảnh này. Tôi đến bên và quỳ xuống lạy cha Định một lạy để từ giã.

                              Tôi cũng có ý muốn lạy để xin lỗi ngài và xin phép được trói tay và nhét giẻ vào miệng ngài theo như kế hoạch đã bàn tính. Đây là cách giúp cha Định có lý do để trả lời cho cán bộ là bị chúng tôi uy hiếp, còn cán bộ có tin hay không là việc khác.

                              Tôi làm các việc này trong sự nhanh nhẹn lạ thường trong lúc các anh khác đã lần lượt chui qua lỗ tường vừa đào được để ra hầm chứa phân và bò ra ngoài trước.

                              Xong việc, tôi phóng nhanh như một vận động viên chạy nước rút, vội chui qua lỗ tường vừa đào rơi vào buồng chứa phân và theo các anh em kia. Lúc bấy giờ đã muộn, tôi nghe văng vẳng tiếng gà gáy lần thứ hai! Tôi bắt đầu cầu nguyện cho sự an toàn của 5 người chúng tôi và của cha Định nữa.


                              Click image for larger version

Name:	Saigon-ngay-30-4_30.04.2023-696x873.jpg
Views:	14
Size:	45.8 KB
ID:	188330


                              Chúng tôi xếp hàng dọc chạy lần theo con đường hẹp từ cánh cửa vừa bị phá thông ra phái sau khu kiên giam. Con đường này chỉ rộng chừng 1.50m để người tù gánh phân ra vào lấy phân mỗi ngày trên khu kiên giam.

                              Để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục này, mọi chi tiết đều được chúng tôi nghiên cứu cẩn thận.

                              Ngay cả việc thứ tự của mỗi người khi đi đứng và làm những phần hành khác nhau.


                              Đặng Văn Tiếp
                              là người khỏe và tháo vát nhất trong nhóm, lúc nào cũng đi đầu.

                              Lâm Thành Văn
                              là người có bệnh và yếu nhất trong nhóm nên đi giữa và tôi là người trẻ nhất đi ở cuối cùng để nếu có gì trục trặc bất ngờ tôi còn thể ứng đối được.



                              Click image for larger version

Name:	279533514_558345259047978_980549272715096587_n.jpg
Views:	14
Size:	22.1 KB
ID:	188331


                              Anh Đặng Văn Tiếp
                              dẫn đầu, nằm sát mặt đất bò ra ngài quan sát, thấy không có ai, anh khoát tay ra hiệu cho chúng tôi bò ra tới bức tường khu kiên giam ngay bên góc nhà.

                              Bức tường ngăn cách các buồng này chỉ cao chừng hai thước và chúng tôi leo qua một cách dễ dàng để tới bên chân tường cao của trại. Khu vực này, chúng tôi mới đặt chân tới lần đầu tiên sau 9 tháng sống trong trại này.

                              Đó là một hành lang rộng quãng 5 thước và chạy dài theo bờ tường rất cao, xây bằng đá xanh, bao quanh trại. Trên mỗi góc của tường trại có chòi gác.

                              Ban ngày lúc nào cũng có một cán bộ võ trang ngồi canh gác, nhưng chiều lại, sau khi điểm danh vào buồng khóa cửa, không còn cán bộ ngồi gác trên đó nữa, thay vào đó họ sẽ luân phiên đi tuần hành ban đêm trong khắp khu trại.

                              Lúc này, chúng tôi đang tới giai đoạn chót cũng là giai đoạn khó khăn là vượt qua bức tường cao để thoát ra ngoài.


                              Giai đoạn chót này đã được chúng tôi điều nghiên thật kỹ lưỡng và phân công rất chi tiết và cũng đã thực tập qua.

                              Vì đã được phân công và tập dượt trước nên khi vừa tới chân tường bao bọc chung quanh trại, anh Trịnh Tiếu và tôi ngồi xuống cho anh Tiếp leo lên đứng trên vai.

                              Anh Tiếp tay cầm một thanh tre cột móc sắt ở đầu thang dây, giơ lên cao và móc vào cọc sắt của hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, rồi thả thang dây xuống. Bờ tường cao ước chừng 5 thước nên chúng tôi đã phải dùng chiếc thang “ người ” để anh Tiếp có thể quàng được cái móc sắt vào trên trốc bức tường.

                              Sau khi thang dây được thả xuống, theo đúng kế hoạch, anh Tiếp leo lên trước tiên. Khi lên trốc tường cao anh cột một đoạn dây nhỏ vào cọc sắt nơi móc thang dây, thòng ra phía ngoài tường và bám theo dây này tuột xuống.

                              Anh Tiếp ra tới bên ngoài không bị trở ngại gì, mọi chi tiết dự trù được thực hiện đầy đủ và nhanh nhẹn.

                              Tới phiên Nguyễn Sỹ Thuyên cũng leo lên tới trên đỉnh bức tường cao rồi đu dây bên ngoài xuống đất không có gì trở ngại. Nhưng tới phiên Lâm Thành Văn, xẩy ra một rắc rối chết người !

                              Vì biết Lâm Thành Văn yếu nên anh Tiếu và tôi nâng anh lên cao một đỗi. Khi Lâm Thành Văn bám thang dây leo được giữa chừng thì thang dây bị đứt làm Văn té lộn nhào xuống. May mà có Tiếu và tôi đưa tay hứng lấy anh và anh không bị ngã xuống đất. Thật là một đại họa ngoài sự dự trù của chúng tôi.

                              Lúc đó, tôi đứng bên dưới nhìn lên, hình ảnh một đoạn thang dây còn lại treo lơ lửng trên tường cao trông ghê rợn như giây thòng lọng của cái giá treo cổ.

                              Tôi thẫn thờ cúi xuống nhìn đoạn thang dây bị đứt nằm dưới đất rồi lại ngước nhìn phần còn lại treo quá cao bên trên, tôi điếng người chẳng biết tính làm sao.

                              Nhìn cái móc sắt “báu vật” làm bằng dây phơi bằng thép gai bện lại mà chúng tôi đã bỏ ra bao nhiêu công sức và kế hoạch mới đánh cắp được, giờ này đã trở thành vô dụng và đang móc vào chân cọc sắt trên trốc bờ tường cao.

                              Tình thế trở nên vô cùng bi đát, vì ba người còn kẹt lại bên trong không làm sao với tới đoạn thang dây ngắn còn lại ở lưng chừng bờ tường. Tệ hại hơn nữa, chúng tôi cũng không có cách gì để báo tin cho hai người bên ngoài về tai nạn vừa xẩy ra.

                              Bụng dạ tôi lúc bấy giờ nóng như lửa đốt và tôi cũng nghĩ là anh Tiếp và anh Thuyên đang nấp bên ngoài cũng hết sức sốt ruột và lo lắng vì không biết chuyện gì đã xẩy ra bên trong.

                              Tôi cố gắng đủ mọi cách để với lên thang dây bị đứt đang treo lơ lửng bên trên, nhưng vô hiệu quả. Tình thế trở nên tuyệt vọng, và khi nhìn về cuối chân trời, tôi thấy chân trời phía đông đã hơi ửng đỏ, lần đầu tiên tôi thấy cái chết đã gần kề và chắc chắn.

                              Vì không dự trù trường hợp chết người này nên trong tay chúng tôi lúc đó không còn có thứ gì để giúp với lên được trốc bờ tường đá xanh cao 5 thước này.

                              Trong cảnh tuyệt vọng đó, tôi ngồi xuống cho anh Tiếu đứng lên vai tôi và Văn đứng chồng lên vai Tiếu với hy vọng sẽ nối lại được chiếc thang dây, nhưng không kết quả vì tôi không thể nào chịu nổi sức nặng của hai người.

                              Vả lại, Lâm Thành Văn yếu quá, cũng không thể đứng lên cao trong tư thế mà những người làm xiếc còn phải cẩn thận ! Chúng tôi làm đi làm lại, và lần nào leo lên rồi cũng té nhào xuống như những quả mít chín rụng phình phịch xuống mặt đất có nhiều cỏ sát chân bờ tường.

                              Sau khi cố gắng bằng đủ mọi cách nhưng không kết quả, tôi đành phải bảo hai người bạn ngồi xuống đợi và tôi chạy trở vào buồng.


                              Lúc bấy giờ biết là đã muộn và cuộc vượt ngục coi như đã thất bại, nên tôi không còn e dè như lúc mới vừa bò ra khỏi buồng.

                              Lần này, tôi cố gắng chạy thật nhanh trở lại buồng, tiết kiệm được phút nào hay phút nấy. Tôi hành động vì sự thúc đẩy của bản năng sinh tồn và không còn biết lo sợ là gì.

                              Lúc nãy, khi chúng tôi đi ra, ai nấy cẩn thận bò trườn sát mặt đất như những con sư tử rình mồi theo sự hướng dẫn và quan sát của anh Tiếp, lần nầy trở lại buồng, tôi cứ thế mà cắm đầu cắm cổ chạy.

                              Cũng may lúc đó không có cán bộ nào đi tuần, nếu có, chắc tôi đã lãnh nguyên một băng đạn vào thân thể và sự việc đã hoàn toàn đổi khác. Tôi vượt qua bức tường thấp của khu vực kiên giam một cách nhanh nhẹn và dễ dàng như một con sóc và chạy vào hầm chứa phân mà tôi vừa từ bỏ lúc nãy.

                              Muốn trở vào buồng, tôi phải chui trở lại qua cái lỗ tường vừa đào nằm cao bên trên.


                              Vì cao quá, tôi không thể với tới để chui trở vô buồng cho được. Lúc nãy có mấy người nên chúng tôi cõng nhau lên để chui vào, bây giờ chỉ có một mình tôi, sống hay chết gì cũng chỉ có một mình, và tôi phải tự xoay xở lấy. Trong lúc tuyệt vọng, tôi nhớ cánh cửa gỗ mà chúng tôi vừa kéo bật đinh lúc nãy, đang nằm gần lối ra vào hầm chứa phân.

                              Tôi mò lại tìm mấy tấm ván đang nằm rải rác gần đó mang lại và bắt dựng lên gần cái lỗ của bức tường. Khổ nỗi, những tấm ván này trơn trợt nên không dễ gì để tôi có thể bám mà leo lên được. Mấy lần tôi cố leo lên lại bị tuột xuống và rơi tõm vào cái sọt chứa phân, làm phân văng tung tóe trong cái hầm tối om !

                              Sau mỗi lần thất bại, tôi cứ phải mò mẫm nhiều chỗ mới có thể tìm lại được những tấm ván để bắt đầu lại. Thật là khổ thân tôi, việc ra khỏi buồng đã khó mà trở lại vào buồng cũng không dễ gì hơn. Tôi loay hoay hết cách này qua cách khác, cuối cùng rồi cũng leo lên được và trườn người chui vào lỗ để trở vào buồng.

                              Căn buồng lúc này như một bãi chiến trường. Chỗ nào cũng bê bết những gạch, vôi vữa, áo quần, chăn, màn, chiếu... Trong một góc buồng sát cạnh lối đi vào cầu tiêu, chiếc đèn dầu bé nhỏ vẫn đang leo lét cháy.

                              Cha Định đang nằm dưới đất, thấy tôi bước vào vô cùng ngạc nhiên và lồm cồm mò ngồi dậy. Tôi chẳng nói với cha Định một lời nào, chỉ vội vàng lục tung các thứ đồ đạc của tôi.

                              Hai tay tôi bươi móc nhanh như một con chuột đào hang để mò tìm cái màn. Đây là loại màng lưới bằng ny-lon của quân đội rất bền chắc. Tôi cuộn cái màn vào bên trong áo, vội vàng quay trở lại chui qua lỗ tường vào hầm chứa phân và theo đường cũ chạy ra chân bờ tường, nơi hai người bạn còn đang ngồi chờ ngay bên dưới đoạn thang dây treo lơ lửng bên trên. Lúc này trời đã hừng sáng !

                              Tôi xoắn tròn cái màn lại, nối với đoạn thang bị đứt và cố gắng ném lên cho máng vào dây thép gai trên trốc bờ tường. Vì tường cao quá nên tôi ném lên rồi lại rơi xuống, cứ thế tôi cố hết sức ném cái màn lên.

                              Sau một lúc cố gắng, chiếc màn mắc dính được vào bờ rào dây thép gai trên trốc bức tường. Sau khi ghì thử thấy chắc chắn, tôi bảo anh Văn bám vào leo lên trong khi Tiếu và tôi cố nâng Văn lên, nhưng Văn chỉ leo được một đoạn lại té xuống. Một lần, hai lần... Văn leo lên rồi lại té xuống vì anh đã quá yếu.

                              Chỉ có thang dây với những thanh gỗ nằm ngang mới có hy vọng giúp được anh. Biết mình không thể leo ra được, Văn đau xót bảo :


                              - Tôi không đi được, hai anh lo tìm cách leo ra đi!

                              Tôi bảo Văn :


                              - Không thể được, chúng ta đã thề hứa cùng sống cùng chết với nhau, làm sao chúng tôi có thể bỏ anh cho đành ?

                              Văn mệt nhọc, ngồi bệt xuống đất, xua tay từ chối. Khi thấy anh Tiếu định kéo anh trỗi dậy, anh nói với anh Tiếu :


                              - Anh Tiếu với anh Lễ lo đi đi, tôi đành bỏ cuộc ! Hai anh đi ngay đi, ở đây chết cả đám, ích lợi gì !

                              Nói xong, Văn đứng lên, nắm lấy bàn tay tôi và tay anh Tiếu, bóp mạnh để từ giã, xong quay lưng đi dọc theo chân tường !




                              Click image for larger version

Name:	thang-tu-den.jpg
Views:	14
Size:	67.7 KB
ID:	188332


                              Tới phiên Trịnh Tiếu cố gắng bám cái màn leo lên, nhưng cũng không nổi mặc dù tôi hết sức cố gắng nâng người anh lên. Khi thấy không thể nào leo lên được, anh bèn quay sang bảo tôi lo trèo lên, còn anh đi thẳng thật nhanh về phía Văn, bỏ tôi đứng bơ vơ với chiếc màn treo lơ lửng trên bờ tường.

                              Lòng tôi buồn vô hạn khi nhìn theo bóng hai người anh em nắm tay nhau đi thật nhanh dọc theo chân tường về phía tay trái mất dạng. Đây là sự mất mát đầu tiên trong vụ vượt ngục.


                              Không biết lúc đó trong thâm tâm hai anh nghĩ gì nhưng riêng tôi thật tan nát cõi lòng khi nhìn bóng hai anh đi xa dần, xa dần... Tôi cũng đoán biết những gì đang chờ đợi hai anh khi người cán bộ đầu tiên trông thấy. Tôi hiểu rằng, hai anh có ý đi thẳng để tôi khỏi bận tâm mà lo thoát ra ngoài cho nhanh.



                              Click image for larger version

Name:	babui_042013_4.jpg
Views:	14
Size:	36.4 KB
ID:	188333



                              Còn lại một mình, tôi lấy hết sức lực bám vào chiếc màn cố leo lên. Chiếc màng lưới nhùng nhằng bám vào các gai nhọn của hàng rào bên trên không có thể coi là một loại thang được. Nhưng trong hoàn cảnh đó không hiểu sức lực ở đâu lại dồn về đôi cánh tay khẳng khiu của tôi và tôi đã bám lấy chiếc màn như một con thạch sùng đang bám vào tàu lá để leo lên.

                              Tôi cố gắng nương tay làm sao cho cơ thể mình trở nên “vô trọng lượng” để chiếc màng lưới có thể chịu đựng.

                              Khi tôi leo lên gần tới đầu bờ tường, chiếc màn tự nhiên bị rách toạc một phát. Tôi vội vàng đưa một một tay vớ được hàng rào dây thép gai trên trốc bờ tường, còn tay kia chới với giữa khoảng không trong khi tôi cách mặt đất bên dưới bằng cả chiều cao của bức tường !

                              Trong cơn hoảng sợ đó, tôi còn cảm thấy được các gai thép nhọn đâm xuyên qua lòng bàn tay và nghe dòng máu nóng chảy ngược xuống nách, vì lúc đó chỉ có một tay đang ghì lại sức nặng của toàn bộ cơ thể.

                              Mặc dù vậy, lúc ấy trong đầu óc tôi hiện ra hình ảnh tên cán bộ cầm khẩu AK chực nhả đạn vào thân thể đang treo lơ lửng của tôi đã làm tôi quên đau đớn. Bằng một sự cố gắng đến tột cùng, tôi nhoài người nắm thật chặt vào dây thép gai đánh đu được lên trên đầu bờ tường.

                              Từ trên trốc bức tường cao nhìn ra ngoài, tôi thấy sợi dây nhỏ mà anh Tiếp cột vào chân cọc sắt dùng để tuột xuống vẫn còn đó nên vội bám vào dây đó và tuột xuống đất. Tôi chẳng còn nghĩ tới việc cuốn lấy cái màn bên trong, mà có muốn cũng không thể làm được vì cái màn bị móc chằng chịt vào dây thép gai, hơn nữa lúc bấy giờ đã quá muộn.

                              Xuống tới chân tường, tôi bị choáng ngợp và thấy nhẹ nhàng trong cảm giác đang hít thở không khí tự do! Mặc dù đây chỉ là một thứ tự do chết người ! Cái cảm giác “người tự do” lúc bấy giờ thật khó mà diễn tả cho được.

                              Tôi nghĩ Tiếp và Thuyên ẩn nấp trong chuồng trâu đã sốt ruột chờ tôi chí ít là hai tiếng đồng hồ ! Một giờ lúc đó dài hơn một thế kỷ .

                              Vừa tuột xuống đất, tôi vội vàng chạy vào chuồng trâu để gặp Tiếp và Thuyên đang ẩn nấp và lo âu chờ tôi ở đó. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt vui mừng rạng rỡ của các anh khi gặp tôi.

                              Tôi vội sơ lược cho hai anh biết sự việc xẩy ra bên trong đã khiến anh Tiếu và anh Văn phải bỏ cuộc. Không chậm trễ một giây phút nào, ba người chúng tôi liền phóng chạy ngay về hướng bờ sông Mã cách đó chừng hai trăm thước.

                              Tôi vừa chạy về hướng bờ sông Mã vừa nghĩ thầm là cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại, nhưng vẫn còn tin tưởng vào sự may mắn nào đó như một thứ phép lạ có thể xẩy ra để cứu chúng tôi.

                              Sau khi chạy hết đoạn đường cập theo bờ tường trại, chúng tôi băng qua đoạn đường đất gần bên láng mộc cặp theo một con con suối nhỏ. Con đường sũng ướt và đây đó có những vũng nước mưa còn động lại sau trận mưa to đêm qua.

                              Sau khi qua khỏi láng mộc đã thấy bờ sông Mã lấp ló sau một đồi sắn mới được trồng cách đó không lâu, với những cây sắn vừa cao quá mắt cá chân một đỗi.

                              Chúng tôi hướng thẳng xuống một lùm bụi um tùm bên bờ sông, lúc đó nước dâng cao, chảy thật xiết rồi trầm mình xuống đó.


                              https://www.youtube.com/watch?v=c-iS3tDfzts

                              Comment


                              • Font Size
                                #150

                                DƯỚI DÒNG SÔNG MÃ


                                Buổi sáng ngày 2 tháng 5 năm 1979 hôm đó, nước sông Mã dâng cao vì trận mưa to suốt đêm qua.

                                Đây là vùng thượng nguồn, nước sông chảy một chiều và các cơn mưa đêm qua làm mực nước dâng lên rất cao và chảy mạnh như thác. Chúng tôi trầm mình xuống sông, bơi theo dòng nước chảy mạnh, mò mẫm cập theo các bụi rậm bên bờ sông.

                                Được một quãng khá xa, chúng tôi gặp cái hốc đá thật kín đáo, bên trên có một cây to, rễ cây tua tủa bao trùm kín cả miệng hang, tạo thành nơi ẩn nấp thật lý tưởng.

                                Cả ba người lặn xuống nước chui vào ẩn nấp trong hang đó và chờ đợi.

                                Tôi ở trong cùng, sau tôi là Tiếp, còn Thuyên nấp bên ngoài, gần miệng hang. Chúng tôi yên lặng và nín thở đợi chờ.

                                Thời gian lúc bấy giờ như ngừng lại để đủ cho tôi nhận định tình thế và cảm nhận hết cảm giác kinh hoàng của một con thú bị săn đuổi và đang bị dồn đến bước đường cùng.

                                Lúc đó, tôi biết là mình sắp chết, tôi sắp phải từ giã cuộc đời ở tuổi 36 và tôi chẳng chút hối hận gì khi phải ra đi. Lúc đó, tôi nhớ tới cái giá của hai chữ TỰ DO sao mà cao quá.

                                Tôi sắp sửa trả bằng cái giá mạng sống của tôi nhưng vẫn chưa mua được. Tôi nhớ lại trên quê hương tôi, có bao nhiêu người đã phải trả cái giá như tôi nhưng họ vẫn chưa mua được hai chữ TỰ DO !


                                https://www.youtube.com/watch?v=RNvrPteb7O4



                                Ôi ! Huyền nhiệm thay hai chữ TỰ DO , hai chữ đó là giá trị tuyệt đối của đời tôi và cũng là của dân tộc tôi. Tôi không hối hận gì nếu phải chết ở tuổi 36 vì hai chữ TỰ DO , tôi chỉ tiếc là tôi phải kết liễu cuộc đời quá sớm khi tôi chưa có điều kiện để tranh đấu mang lại TỰ DO cho dân tộc tôi như lòng tôi mong ước. Đó là lý tưởng mà tôi hằng ấp ủ từ khi có trí khôn để nhận biết dân tộc Việt Nam của tôi là một dân tộc bất hạnh vì thiếu TỰ DO.

                                Tôi khẳng định tôi được sinh ra đời làm người vì sứ mệnh đó. Tôi làm Linh mục cũng vì sứ mệnh đó.


                                https://www.youtube.com/watch?v=VShmkOLipGk



                                Nằm trong hang một lúc, chúng tôi nghe ba tiếng súng báo động có tù vượt ngục. Giây phút kinh hoàng nhất của chúng tôi đã tới.

                                Tôi biết là mình đang ở trong tình trạng rất nguy hiểm, nhưng vẫn nuôi hy vọng là họ sẽ không tìm thấy chúng tôi đang ẩn nấp trong cái hang có lớp cỏ bao phủ bên trên và phải lặn xuống sâu mới vào được trong hang này.

                                Biết đó là một hy vọng rất mong manh nhưng tôi vẫn nuôi hy vọng. Chúng tôi đứng yên lặng cho đến nỗi tiếng nước chảy róc rách bên ngoài cũng trở thành một tiếng động rất rõ ràng vọng tới tai tôi và làm tôi kinh hãi.

                                Vì chỗ chúng tôi nấp không xa trại bao nhiêu nên không bao lâu sau ba tiếng súng, tôi lặng người khi nghe rõ tiếng chân người chạy rần rật ngay bên trên, chen vào với tiếng la hét, tiếng chó sủa và tiếng súng đạn va chạm nhau lách cách. Chúng tôi biết là cán bộ đang dắt chó săn truy lùng chúng tôi ráo riết.

                                Mặc dù tôi đã biết trước và sẵn sàng đón nhận tình huống này, nhưng thật tình lúc đó tôi sợ đến điếng cả người và tôi nghĩ đây là phản ứng tự nhiên của bất cứ một sinh vật nào khi thấy mạng sống sẽ bị mất đi trong giây lát.

                                Tôi yên lặng, nhắm mắt cầu nguyện và phó thác đời tôi trong tay Chúa.

                                Lúc sau, tiếng chân người xa dần khiến tôi mừng thầm nghĩ rằng họ đi qua luôn. Nhưng không bao lâu, lại nghe tiếng ồn ào trở lại, rồi tiếng la hét và tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn. Biết chắc là không thể thoát được, tôi lại dọn mình ăn năn tội một lần nữa để sẵn sàng đón nhận cái chết.

                                Lúc bấy giờ Nguyễn Sỹ Thuyên ở gần ngoài miệng hang, lội vào trong, đến nép sát vào với Đặng Văn Tiếp và tôi. Tự nãy giờ ba anh em tôi chẳng ai nói một lời nào. Lúc đó bất ngờ anh Tiếp quay sang ôm lấy tôi xin tôi làm phép Rửa tội cho anh.

                                Tôi đã khoát nước sông Mã làm phép Rửa tội cho anh Tiếp.

                                Trong thời gian sống chung với tôi, anh Tiếp có ngỏ ý muốn được Rửa tội, và tôi đã giúp anh về phần giáo lý.

                                Khi vừa Rửa tội xong, anh Tiếp ôm hôn tôi một cách vô cùng tha thiết như bày tỏ sự vui mừng và biết ơn. Tôi cảm thấy có một cái gì khác lạ trong cử chỉ này của anh Tiếp, nhưng tôi đâu có ngờ đó là cái hôn vĩnh biệt của người anh gởi lại cho người em trước khi anh Tiếp từ giã cuộc đời !

                                Trong giây phút đó tôi cố quên đi tất cả những việc của đời người để hướng tâm hồn về cõi sống trường sinh. Tôi tự nhiên cảm thấy rất vui vì vào những giây phút cuối đời, tôi đã nhân danh Thiên Chúa mà ban Bí tích Rửa Tội cho anh Tiếp, là người anh kết nghĩa mà tôi vô cùng thương mến.

                                Lúc này thì tiếng la hét, tiếng người, tiếng chó sủa càng lúc càng gần hơn.

                                Tôi không đoán được các loại âm thanh đó ở đâu nhưng tôi đoán có lẽ là ngay trên đầu chúng tôi vì bên bờ sông có một cây to mọc trồi ra mé nước và chung quanh có lùm bụi um tùm rất dễ cho người ta nghi tù vượt ngục rúc vào trốn trong đó.

                                Tôi đoán không sai, từ trong hang tối om khẻ vạch cỏ nhìn ra, tôi thấy tên Thượng sĩ Hoàn mặc áo thun và quần đùi trắng với khẩu súng lục có dây đeo quàng ngang vai.

                                Hắn đứng trên chiếc xuồng nhỏ, tay cầm cây tầm vông dài chừng ba thước, trên đầu có cây sắt nhọn mà tiếng miền Nam chúng tôi gọi là cây "xà-no" dùng đâm chuột hoặc đâm rắn trong các lùm bụi, nhất là trong mùa nước lên.

                                Tên Thượng sĩ Hoàn chỉ huy số cán bộ võ trang canh gác đêm vừa rồi, và việc chúng tôi vượt ngục đã làm cho hắn tức giận điên cuồng.

                                Người hắn khá mập, hơi lùn và rất rắn chắc. Đặc biệt hắn có nước da đen, đen hơn những người có nước da ngăm đen bình thường. Nước da hắn đen nên càng làm cho đôi mắt hắn trắng dã dưới đôi chân mày thật rậm và gần đụng nhau trên sống mũi.

                                Toàn diện khuôn mặt hắn lộ ra cái vẻ của hạng người “ mặt đụt ” , thuộc loại ngu đần và hung ác.

                                Hắn vừa chống xuồng vừa chọc cây sắt nhọn một cách hung bạo vào các bụi rậm bên bờ sông mà hắn nghi ngờ. Thấy chiếc xuồng đang trôi từ từ xuống chỗ chúng tôi đang nấp, tôi mất hết hy vọng !

                                Đã vậy tôi còn nghe tiếng người đàn bà trên thuyền đánh cá bên sông gọi vọng sang, giọng lanh lảnh :

                                - Chúng nó vừa ở ngay đấy thôi !

                                Tên Hoàn quay mặt sang hỏi :

                                - Ở mô ?

                                - Đâu trong bụi rậm trước mặt ấy, tôi vừa nom thấy chúng ngay bụi ấy !

                                Theo sự chỉ dẫn của người đàn bà, tên Thượng sĩ Hoàn vạch từng bụi cỏ, rọi đèn pin xuống và cuối cùng hắn đã tìm thấy chúng tôi. Thế là hết !

                                https://www.youtube.com/watch?v=YRLMhDHedvo



                                GIÂY PHÚT KINH HOÀNG



                                Thật khó mà diễn tả được tâm tư của tôi trong lúc bấy giờ. Tôi nghĩ là cuộc đời của ba anh em tôi chấm dứt kể từ giây phút đó.

                                Cuộc vượt ngục đã hoàn toàn thất bại và chúng tôi phải sẽ trả cái giá cho việc làm này. Lúc đó tôi có thể hình dung ra được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo, bởi tôi đã được chứng kiến cảnh tù nhân bị hành hạ khi vượt ngục thất bại.

                                Họ bị đánh đập và hành hạ như một con thú. Có người đã bị đánh chết một cách thê thảm.

                                Lúc đó, tôi ôm ghì lấy anh Tiếp và nói :

                                “Anh em mình nhất định không ra, cho nó bắn chết ở đây !”


                                Khi nghe tôi nói, anh Tiếp càng ôm lấy tôi chặt hơn,
                                trong khi tiếng la hét đầy thú tính của bọn người đang đứng trên bờ sông như một tốp thợ săn đã bao vây được con mồi, chỉ còn chờ giương cung hạ thủ.

                                Tên Thượng sĩ Hoàn như một hung thần đang lồng lộn la hét giục chúng tôi ra. Tiếng la hét của hắn đầy vẻ man dại và điên cuồng như muốn xé tan màn sương mai của vùng rừng núi âm u Thanh Cẩm.

                                Nguyễn Sỹ Thuyên nấp ở bên ngoài lội ra trước, trong khi anh Tiếp và tôi ôm nhau ghì cứng trong hang, nhất định không ra.

                                Sau khi la hét một hồi thấy không lay chuyển, tên Hoàn vạch cỏ che trên rễ cây, dí mũi súng lục lạnh toát vào thái dương của tôi, miệng hắn la hét một cách man dại :

                                - “ Lễ! Mày có bơi ra không ? Hay đợi tao bắn nát đầu mầy ra, hả ?”


                                Thực tình mà nói, lúc bấy giờ tôi chỉ mong cho hắn siết cò. Tôi nghĩ đó là cách giải quyết tốt nhất. Nhưng tên Hoàn không bóp cò súng vào thái dương tôi mà quay súng ngược lên bắn chỉ thiên mấy phát.

                                Đó là dấu hiệu báo cho các nhóm đang tuy lùng khác biết là đã bắt được tù vượt ngục.

                                Thấy la hét không kết quả gì, hắn bèn điên cuồng chụp lấy cây “xà no” mà hắn để trên thuyền, chọc một cách điên cuồng vào hang.

                                Mũi sắt nhọn trúng vai anh Tiếp.
                                Qua ánh đèn pin của hắn, tôi thấy máu anh Tiếp tuôn ra đỏ thẫm một vùng nước.

                                Trước tình thế này, chúng tôi thấy không còn cách nào khác hơn là phải lội ra.
                                Anh Tiếp bắt đầu lội ra khỏi hang trước, tôi lội theo sau. Từ mí nước lên tới bờ còn khá cao.

                                Tôi hành động như một cái máy. Hai tay nắm lấy từng bụi cỏ, tôi bò dần lên bờ sông trong lúc đám đông chừng vài chục người, cả công an, cai ngục lẫn dân chúng đang đứng lố nhố trên bờ sông nhìn xuống theo dõi cảnh tôi đang lóp ngóp bò lên bờ.

                                Lúc ấy, tôi có tâm trạng của một tử tội, trên đường đi tới pháp trường.



                                Click image for larger version

Name:	11188253_1115927681767311_8613155104546050260_n.jpg
Views:	12
Size:	39.2 KB
ID:	188430

                                Comment

                                Working...
                                X