Announcement

Collapse

Happy Easter

THÂN CHÚC MỘT MÙA LỄ PHỤC SINH AN LÀNH, ẤM ÁP, VUI VẺ
ĐẾN VỚI CÁC BẠN VÀ GIA ĐÌNH

LV
See more
See less

Lời mời gọi cùng viết về “Ký ức 30 tháng 4”

Collapse
This is a sticky topic.
X
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Lời mời gọi cùng viết về “Ký ức 30 tháng 4”



    Như chỉ mới hôm qua – Ký ức 30 tháng 4

    Thấm thoát, tháng Tư lại về, lại nhắc hàng triệu người Việt nhớ về những ngày tháng và khoảnh khắc mãi không bao giờ quên của riêng mình hay gia đình. Hàng năm, những bút ký ngắn đầy cảm xúc vẫn xuất hiện đó đây, đem lại nhiều hình ảnh về một sự mất mát nhưng đồng thời cũng là dữ liệu quý giá không khác gì chính sử cho các thế hệ người Việt tự do cho nhiều đời sau.

    Nhận biết và trân quý những điều không thể để phai nhạt với từng con người Việt Nam, báo Saigon Nhỏ muốn tạo các tập văn tuyển để giữ lại, in và phát hành trên toàn cầu. Vì vậy, nhân tháng 4 này, trân trọng mời quý vị hãy cùng góp tay, ghi lại những gì không thể quên, đã mất nhưng sống động khôn cùng, về tự do, sự mất tự do và con đường tìm kiếm tự do của người Việt. Câu chuyện có thể là điều chưa từng kể của người trong cuộc, tâm tình sẻ chia về tình đồng bào, nghịch cảnh từng trải qua hoặc những hồi ức còn nguyên giá trị nhân văn…

    Xin quý vị đừng ngần ngại sẻ chia, đừng giữ lại những gì có thể chỉ là im lặng vô nghĩa trong đời mình. Hãy gửi đến Saigon Nhỏ để ký ức trở thành bút ký và là tác phẩm cho những quyển sách để lại cho thế hệ sau chúng ta. Mỗi bài viết, trong khuôn khổ từ 1,200 đến 3,000 từ, xin gửi về bientap@saigonnhonews.com. Bài viết chưa từng đăng ở bất kỳ đâu, kể cả ở trang cá nhân trên mạng xã hội. Xin kèm theo ảnh nếu có và ảnh không vi phạm luật bản quyền.

    Những bài hay được chọn sẽ được in vào bộ sách NHƯ CHỈ MỚI HÔM QUA với nhiều chủ đề khác nhau mà chủ đề đầu tiên được chọn để khởi động cho dự án này là “Ký ức 30 tháng 4”. Bài được chọn in sách sẽ được trao nhuận bút cùng sách biếu như một thể hiện của trân trọng và cảm ơn. Xin quí vị hãy cùng nhau giữ lại những khoảnh khắc của chúng ta, từ dự án này.

    Thời hạn nhận bài bắt đầu từ ngày 1-4-2021 và kết thúc ngày 30-4-2021.

    Tòa soạn Saigon Nhỏ sẽ tuyển chọn, đăng các bài viết hay nhất, và sẽ gửi nhuận bút đặc biệt cho ba bài được ban biên tập cũng như độc giả đánh giá là xuất sắc nhất, lần lượt là 500, 300 và 200 USD.

    Tác giả chịu trách nhiệm về nội dung bài viết của mình.

    Việc gửi bài đồng nghĩa với quý vị xác nhận chia sẻ bản quyền với việc công bố trên mọi phương tiện của Saigon Nhỏ.

    Mọi tranh chấp về nội dung, bản thảo, dữ kiện… từ bài viết không thuộc trách nhiệm pháp lý của Saigon Nhỏ.

    Trân trọng,

    BBT Saigon Nhỏ

    Attached Files

  • Font Size
    #2
    MỘT CÂU CHUYỆN RẤT BUỒN

    DuyTrac-AuOanh




    Tôi nhớ rất rõ chuyện xẩy ra rất lâu khi tôi gần tròn bốn tuổi.

    Hồi đó, gia-đình tôi sống gần một làng chài ở Mỹ-khê, Đông-Giang thuộc quận ba thành-phố Đà nẵng.

    Ba tôi phục-vụ trong quân-đội VNCH, đơn-vị đóng ngoài Quảng-Trị, cấp bậc hạ-sĩ. Mẹ tôi bán cá ngoài chợ Sơn-trà. Mẹ tôi mua cá của những ghe chài cập bến vào sáng sớm, để đem ra chợ bán. Một buổi trưa Chúa nhật, hai anh em tôi chơi banh ngoài sân cỏ bên cạnh nhà, chờ mẹ về cho ăn cơm. Anh tôi học lớp đệ thất trường Trung-học Đông-Giang, tôi học lớp mẫu-giáo của một trường tư trong phường. Đang chơi, vô tình trái banh do anh tôi đá quá mạnh, tôi đỡ không nổi nên bị trái banh trúng vào mặt. Đau quá tôi khóc ầm lên, anh tôi chạy đến dỗ dành tôi, lấy tay lau nước mắt cho tôi, xoa nhẹ vào má tôi, nơi bị đau. Vừa lúc đó mẹ tôi từ chợ về.Thấy mẹ, tôi càng khóc lớn thêm. Khi biết được sự việc, mẹ tôi quơ tay đập nhẹ mấy cái vào đầu anh tôi mắng: “Cha mi, làm em đau,” rồi vội dẫn tôi vào nhà, lấy khăn ướt lau mặt cho tôi, để tôi vào võng đưa qua đưa lại, dỗ dành: “Nín đi con, sau nầy đừng chơi banh nữa, tháng tới sinh nhật con ba về mẹ nói ba mua cho con chiếc xe đạp nhỏ, con đạp đi học giống như anh Hai của con.” Nói xong, mẹ tôi đi vào bên trong nhà rồi trở ra, một lá thơ trên tay: “Đây là thơ của ba con gởi về hôm tháng rồi” mẹ tôi đọc:

    – Tháng tới, ngày 27 tháng 4 sinh-nhật của cu Tấn, anh sẽ xin phép về vài ngày. Em xem mấy cửa hàng bên chợ Hàn nơi nào bán xe đạp vừa tầm cỡ cu Tấn, anh về sẽ mua cho con một chiếc.

    Nghe vậy, tôi ngừng khóc. Mẹ tôi ngồi vào võng, ôm tôi nằm sấp vào lòng, vừa đưa võng vừa nói, “Bữa ni mới 10 tây tháng hai, còn hơn hai tháng nữa ba mới về. Từ đây đến ngày đó, nếu con còn nhõng nhẽo không nghe lời của mẹ và anh hai thì mẹ nói ba không mua xe đạp cho con đâu.”

    Tiếng mẹ tôi nghe nhỏ dần, trong mơ tôi nghe tiếng ba tôi khen “Cu Tấn đạp xe giỏi quá”, tiếng mẹ và anh hai: “Coi chừng té! coi chừng té”, và tiễng vỗ tay của ba người.
    *
    Một buổi sáng, tôi đã thức dậy nhưng còn nằm nuớng trên giường với mẹ. Hôm đó biển động nên không có cá bán, mẹ ở nhà. Mẹ tôi ôm tôi: “Còn gần một tháng nữa, ba con về phép mua xe cho con, con lớn rồi, bốn tuổi đâu còn nhỏ nữa mà hở đâu khóc đó” Tôi mắc cở, dụi đầu vào lòng mẹ thì nghe có tiếng đập cửa rất mạnh. Tiếng bác Hội hỏi lớn: “Thiếm Tiếng có nhà không? thiếm Tiếng có ở nhà không? “Mẹ tôi vùng ngồi dậy, trả lời:
    – Dạ, có tôi ở nhà, hôm nay biển động nên không có cá. Có chuyện gì không anh?
    Mẹ tôi mở cửa. Tôi nghe tiếng bác Hội:
    – Tụi Việt-cọng đã tấn công vào Quảng-trị. Kỳ nầy nghe đâu bọn nó tấn công khắp nơi. Đơn vị của chồng thiếm bị tan hàng, một số bị bắt, một số bỏ chạy, một số bị thương trước đó, được đưa vào bịnh-viện Huế. Chú Tiếng, chồng thiếm nghe nói bị thương, đang nằm ở bịnh-viện Huế.Tin nầy do thằng Báu vừa chạy về cho biết. Hai đứa nó cùng đơn-vị..

    Mẹ tôi khóc. Tôi thấy mẹ tôi như tàu chuối héo, rũ người trên ghế.Tôi và anh hai tôi sợ sệt, vội chạy đến bên mẹ trố mắt nhìn mẹ, không biết nói gì. Nghe tiếng ồn ào, hàng xóm chạy qua, mỗi người một tiếng khuyên mẹ tôi bình-tĩnh nhưng mẹ tôi vẫn khóc.

    Hai ngày sau mẹ tôi đi Huế để tìm ba. Hai anh em tôi được mẹ nhờ bác Hội trông nom săn sóc. Mẹ tôi mua một bao gạo và kho sẵn mấy nồi cá dành cho hai anh em tôi ăn dần khi bà đi Huế.

    Bác Hội là bạn cùng xóm với ba tôi. Nhà hai gia-đình sát vách nhau. Hai người chơi với nhau khi cả hai còn chưa biết hổ thẹn khi chỉ mặc áo. Bác hơn ba tôi năm tuổi. Ba tôi rất thương bác Hội vì ba là con duy nhất của ông bà nội. Bác cũng thương ba tôi như em. Sau nầy tôi được biết bác đã muốn gã em gái cho ba tôi, nhưng chuyện hôn nhân không thành. Bác Hội thi tú tài không đậu nên bác tình nguyện xin đi học Trung-sĩ để khỏi bị bắt làm lính khi đến tuổi thi hành quân-dịch. Bác phục-vụ tại sư-đoàn 2 bộ-binh đóng tại Quảng- ngãi. Năm 1972, bác bị thương, mất một chân và được giải ngũ. Ngày bác cưới vợ, ba tôi dự tiệc, uống rượu rồi gây gỗ ồn ào với một ông khách tham dự lễ cưới. Cảnh-sát quốc-gia can thiệp, bắt và chuyển ba qua Quân-cảnh tư pháp vì tội trốn quân dịch. Ra tóa án quân-sự, ba tôi bị xử đi quân dịch. Ba tôi được đưa đi huấn-luyện tại Trung tâm huấn luyện Hòa-cầm ở quận Hiếu-Đức,Tỉnh Quảng- nam. Lúc đó ba tôi đã có vợ và anh Hai tôi độ chừng bảy tuổi. Ba tôi đóng quân tại tỉnh Quảng-trị và hai lần được thưởng Anh-dũng bội tinh tại mặt-trận. Bác Hội thường nói với anh Hai tôi:”Ba mầy hiền lành như con gái nhưng ra ngoài mặt trận với địch quân, ba mầy gan dạ, không biết sợ chết là gì, được gắn huy chương, được thăng cấp ngoài mặt trận, còn bác chẳng được gì ráo, lúc nào cũng chỉ mang lon trung-sĩ quèn”.

    Mẹ tôi đi Huế tìm thăm ba đã hơn hai tuần mà chưa thấy về. Ba nồi cá kho ăn đã gần hết. Hai anh em tôi ngày nào cũng khóc vì nhớ mẹ. Buổi tối bác Hội thường qua nhà ngồi chơi, an ủi hai anh em tôi đến khuya với về lại nhà bác. Và từ đó hai anh em tôi không còn gặp lại ba và mẹ.
    *

    Một hôm, trong xóm bỗng nhiên tiếng chó sủa vang, tiếng người gọi nhau inh-ỏi, tiếng súng nổ, lính tráng từ đâu đổ về đầy xóm, đầy bãi biển. Xe cộ nối đuôi nhau nằm ụ hai bên vệ đường. Người dân đủ cỡ, đàn bà con nít, ông già bà cả dìu dắt nhau đi, vừa hớt hãi chạy, vừa khóc, tất cả đều theo huớng ra bờ biển.Trong xóm tôi, vài gia đình cũng bồng bế nhau chạy ra bãi biển. Vài người gọi với vào nhà tôi: “Chạy đi, cộng-sản sắp vào tới rồi!”. Hai anh em tôi đứng trong nhà nhìn đoàn người lũ lượt đi..và nhớ đến ba mẹ, chỉ biết khóc.Tôi nghe tiếng bác Hội nói với những người cùng xóm rũ bác đi lánh nạn: “Tôi chỉ còn có một chân mà chạy đi đâu? ” Tối hôm đó bác qua nhà tôi bảo anh Hai tôi hạ cây cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Bác nói:
    – Thằng Tấn anh, mày leo lên đem lá cờ xuống dấu kỹ một chỗ, sau nầy dùng lại; nếu không, lũ khốn-nạn đó vào mà thấy được, chúng sẽ không để yên cho sống đâu.

    Anh hai tôi đem lá cờ xuống xếp nhỏ lại, rồi thoăn thoắt leo lên cột nhà để vào chỗ nứt của đầu kèo nhà, nơi mà anh tôi hay giấu những đồ chơi quý mà anh không muốn cho tôi phá vì sợ bị làm hư.

    Rồi một ngày, đồng loạt tất cả nhà nhà trong xóm đều treo cờ đỏ sao vàng. Anh em tôi được phát mỗi đứa một khăn quàng đỏ và ngày nào cũng đi sinh hoạt thiếu nhi, có ngày mệt quá hai đứa tôi không ăn uống gì hết, tối về đến nhà là lăn ra ngũ, quên cả khóc nhớ ba mẹ.

    Ông thợ may đầu xóm thành ông tổ trưởng dân phố. Mấy con ông, cả trai và gái đứa nào cũng có súng, đi lục soát từng nhà tìm bắt những người đã làm việc cho “ngụy”. Tôi nghe bác Hội gọi lén lũ nầy là bọn “ôn dịch”, “ăn cơm quốc gia thờ ma cọng-sản”. Cá kho hết, anh em tôi ăn cơm với nước mắm. Hết nước mắm, anh em tôi ăn cơm với muối. Đến khi hết gạo thì bác Hội cho tụi tôi ăn cơm độn khoai mì. Nhà bác Hội nghèo, có bác gái và hai đứa con nên phần cơm chia sẽ cho anh em tôi không đủ no bụng. Bác Hội giúp anh Hai tôi bán cái Radio, rồỉ đến chiếc xe đạp…rồi đến một ngày trong nhà không còn gì để bán. Nhà bác Hội cũng không còn gì để bán. Bắt chước mấy người trong xóm, hai anh em tôi đi khắp nơi lượm bao nylon đem ra biển rửa sạch, phơi khô ,vài ba ngày gom lại đem bán lấy tiền mua gạo.Những lúc phơi bao nylon trên bãi biển,tôi phải ngồi canh chừng,nếu không kẻ khác lấy mất. Có lúc canh chừng mà tôi ngũ quên, kẻ gian lấy hết. Anh Hai tôi không nói gì, nhưng nhìn thấy mặt anh buồn thiu.
    *

    Bác Hội gái không còn đuợc cho đi dạy học. Bác chuyển sang mua cá ngoài bến ghe chài đem bán dạo trong xóm. Nhớ trước đây mẹ tôi bán cá trong chợ, tôi hỏi tại sao bác không bán trong chợ như mẹ tôi trước đây? Bác nói “Bác không vào hợp tác xã nên không bán ngoài chợ đươc.” Bác phải mua cá của những ghe chài bán lậu trước khi cập bến.. Để tránh sự dành giật nhau khi mua cá lậu, bác rủ anh tôi cùng phụ bác đi mua bán cá. Khi ghe bán lậu cá còn xa bờ, anh hai tôi bơi ra ghe mua cá rồi đem vào. Cá được cho vào một sô nhựa, bác Hội gái và anh tôi thay nhau xách đi bán khắp nơi trong phường, khóm, có khi đi qua trung tâm thành phố. Công việc kéo dài được vài tháng thì bị công an phường cấm. Anh em tôi không còn gì để ăn, tôi hay đói nên lúc nào cũng đòi ăn. Hàng xóm thương tình, người cho củ khoai, người cho củ sắn nhưng không làm sao hết đói.

    Rồi một buổi sáng sớm, anh hai tôi dắt tôi đến bịnh-viện, anh tôi bảo tôi ngồi chờ anh trước cổng, anh đi vào bên trong.Tôi ngồi chờ lâu quá nên tựa lưng vào tường ngủ gật. Khi anh đánh thức tôi dậy thì mặt trời đã chiếu ngay trên đầu. Anh kéo tôi đi nhanh khỏi bịnh viên, anh nói: “Tấn em chắc đói nhiều lắm rồi phải không?”.



    Tôi chưa kịp trả lời anh rằng “từ hôm qua đến giờ em có gì để ăn đâu! ” thì anh nói tiếp: “Anh cũng đói lắm, hai ngày ni anh cũng chẳng có gì để ăn hết….bây giờ anh em mình tìm gì để ăn.” Anh đi vào con hẻm bên kia đường.Tự nhiên tôi đứng lại không chịu đi theo anh. Kéo mạnh tay tôi, anh nói: “Vào đây anh em mình ăn bún.” Tôi lắc đầu: “Mình không có tiền mà!”. Anh khựng lại nhìn tôi, hai mắt anh sáng lên, giọng anh như reo vui: “Hôm nay anh có tiền!” Anh cho tay vào túi rút ra mấy tờ giấy bạc cho tôi thấy, lúc đó tôi mới chịu đi theo anh. Gánh bún bên lề đường đông người, hai anh em phải chờ khá lâu.. Bụng tôi cứ vang lên tiêng rột…rột..nước miếng cứ chảy ra. Hôm đó anh mua ba tô bún, mỗi người một tô, tô thứ ba được chia làm hai, nhưng anh dồn hết phần thịt cho tôi, anh chỉ lấy phần bún.

    Ăn xong tôi theo anh vào chợ mua gạo khoai mì và nước mắm. Ngày hôm sau anh thức dậy sóm, nấu cơm ghế khoai mì. Hai anh em ăn cơm ghế khoai với nước mắm.

    Bắt đầu một ngày mới. Hai anh em tiếp tục đi nhặt bao nylon.

    Hai tuần sau, anh lại đưa tôi đến trước bịnh-viện, tôi đúng chờ trước cổng, anh đi vào trong và khi anh trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún. Anh cũng mua ba tô, mỗi người một tô, tô thứ ba chia hai, anh chia hết phần thịt cho tôi.Từ hôm đó tôi cứ trông đến ngày anh hai tôi dẫn tôi đến trước bịnh-viện, tôi sẽ đứng bên ngoài chờ, anh đi vào bên trong, lúc trở ra anh lại đưa tôi đi ăn bún.

    Lần thứ ba, anh hai tôi dẫn tôi đến bịnh-viện, tôi cũng đứng trước cổng chờ. Lần này tôi nhìn thấy bác Hội từ bên trong bịnh-viện đi ra, cùng lúc ấy bác cũng nhìn thấy tôi, bác hỏi: “Tấn em làm gì đứng đó?”.Tôi trả lời: ” Con đợi anh hai con, anh ấy vào trong đó” tôi vừa nói, vừa chỉ tay vào bịnh viện. Bác nói: “Anh hai con vào trong đó làm gì vậy kìa? Nó có nói với con không?”.Tôi lắc đầu. Bác đứng lại với tôi, lấy thuốc ra hút….Anh hai tôi từ trong bịnh-viện đi ra. Bỗng nhiên anh đứng khựng lai, vẻ mặt sợ hãi, có lẽ vì nhìn thấy bác Hội? Cùng lúc ấy, bác Hội hỏi:

    “- Con vô đây làm chi rứa?”

    Anh hai tôi không trả lời, mặt nhìn xuống đất, tôi nhìn thấy trong mắt anh chớp chớp, như có những giọt nước. Bác Hội sẵng giọng:”Con vào đó bán máu phải không?”. Anh tôi không trả lời, hai vai anh run nhẹ, những tờ giấy bạc rơi lả tả xuống đất. Bác Hội lê bước tới nắm tay anh kéo đi.Tôi lượm lại mấy tờ giấy bạc chạy theo. Đến một khoảng vắng, bác vứt cây nạng gỗ xuống đất, bác kéo anh tôi vào lòng, bác khóc, anh hai tôi khóc và tôi cũng khóc.

    Về đến nhà, bác hỏi anh hai tôi ai chỉ vẽ cho anh đi bán máu, anh nói:”Trong xóm mình nhiều người đi bán máu lắm, họ rũ con đi”. Bác thở dài, lẩm bẩm: “Khốn nạn cho cái xã-hội mới nầy”!
    *
    Một hôm trời mưa, hai anh em tôi không đi lượm bao nylon. Tôi qua chơi với hai đứa con của bác Hội. Buổi trưa về, vừa mở cửa vào phòng, tôi thấy tên công an Được đang ở trong nhà. Nó vứt mấy đồng bạc trên giường và nói: “Giữ lấy mà mua gạo ăn!”. Tôi nhìn anh tôi dò hỏi nhưng anh im lặng.

    Từ đó, anh tôi không còn vui cười, mặt lầm lì, hay tránh mặt tôi. Vài ngày sau, bác Hội đưa anh vào bịnh-viện vì anh bị đi cầu ra máu. Về nhà, bác lẩm bẩm suốt ngày: “Tên khốn khiếp! có súng, tau bắn nát đầu mầy”.
    Bác Hội xin được cho anh hai tôi công việc gỡ lưới bắt cá trên một ghe chài của một người bà con bên vợ.
    Hàng ngày tôi đi lượm bao nylon một mình. Buổi tối tôi ngủ một mình. Anh hai tôi theo ghe chài hai ngày mới về bến một lần. Tôi ăn uống bên nhà bác Lộc.

    Một đêm, tôi đang ngủ, có cảm giác như có ai ôm mình vào lòng. Tôi nghĩ chắc anh hai tôi đã đi biển về, tôi quay người lại nhưng cái cảm giác chạm vào da thịt của anh hai tôi không giống như thuờng ngày, tôi mở mắt, qua ánh sáng đèn từ ngoài đường chiếu vào, tên Được đang nằm bên tôi. Tôi hoảng sợ, dùng hết sức mạnh hai chân đạp vào bụng tên Được rồi nhảy xuống guờng chạy ra khỏi nhà. Tiếng tên Được gọi theo:” Đừng chạy, tau bắt đưa về công an phường bây giờ”. Nhưng tôi vẫn chạy, chạy qua bao nhiêu con hẽm trong xóm, chạy ra huớng biển và thẳng đến bến ghe chài.

    Tôi ngồi tựa lưng vào cái thúng chài trên bờ. Trước mặt tôi một màu đen mênh-mông, tiếng gió hòa cùng tiếng sóng biển tạo ra một âm thanh kỳ bí làm tôi sợ hãi.. Tôi ngồi chờ anh hai tôi trở về bến. Tôi không dám quay trở về nhà, tôi phải trốn tên công-an Được.
    Bỗng có tiếng chân người đi ven mé biển trước mặt tôi, càng lúc càng nhiều.Tiếng thì thầm thúc dục mà mang âm điệu sợ hãi.. Tiếng trẻ con khóc, tiếng “xuỵt xuỵt ” bảo im lặng. Tiếng gọi tên nhau thì thầm. Tôi nghe tiếng máy nổ của một chiếc ghe từ xa càng lúc càng gần. Ở quanh tôi, đám đông đã đi lên hết trên cầu tàu.

    Chiếc ghe đã cập cầu bến cá. Mọi người lần lượt lên ghe…Tôi nghe tiếng một người đàn ông hỏi:
    – Bà con lên hết chưa? Đếm xem đủ người của mình chưa? Nhanh lên! để ghe rời bến, nhanh lên! nhanh lên! công an nó đuổi tới nơi bây giờ!” Tôi bủn rũn khi nghe mấy tiếng “công-an đuổi đến bây giờ”, tôi nhớ đến lời của tên Được: “Tau bắt đưa về công-an phường bây giờ! “Sợ hãi, tôi leo nhanh lên cầu tàu. Một người chạy đến túm lấy tôi ném lên ghe: “Còn một đứa nhỏ, con ai đây? ..xong rồi! mở máy cho ghe chạy đi, trời bắt đầu sáng rồi.”

    Trong ghe tối đen, tôi không nhìn thấy ai là ai. Một người lay tôi dậy. Trời đã sáng. Mọi người ngồi ép vào nhau.Vài người lao nhao hỏi tôi: “Cháu là con ai vậy? Tên là gì? Đi với ai?. Tôi chỉ khóc, không biết trả lời như thế nào. Một bà dang tay ra ôm và an ủi tôi. Tôi nói với bà: “Con chờ anh con đi theo ghe đánh cá trở về..rồi một người nào đó ném con lên ghe này khi ghe bắt đầu chạy”.

    Buổi chiều hôm đó, mọi người được chủ ghe cho phép lần lượt ra khỏi lòng ghe để thở chút gió mát. Quanh tôi, biển mông mênh không thấy đâu là bờ.Tôi nhớ đến anh hai tôi, nhớ ba mẹ tôi, nhớ gia đình bác Hội, nhớ mọi người trong xóm.

    Tôi nghe hai người đàn ông nói chuyện với nhau:
    – Chuyến này như vậy là thành công, hai lần truớc bị bắt khi ghe vừa rời bến, nhưng lần nầy thì mình thoát, ghe đang chạy vào hải phận quốc tế rồi. ..”

    Hai ngày sau ghe bị đột ngột chết máy, phải thả bồng bềnh trên biển. Trong lúc nguy khổn, may sao ghe được một tàu hàng Do-Thái đi ngang cứu, và chúng tôi được đưa đến trại tỵ nạn cọng-sản ở đảo Galang của nước Nam-dương
    *
    Tôi được một gia-đình người Pháp gốc Do-Thái nhận làm con nuôi, định-cư tại Tel-Aviv sau mấy tháng sống tại tỵ-nạn Galang.
    Hôm xuống tàu để sang Singapour, những người tỵ-nạn còn đang bị tạm lưu lại đảo, tụ tập ngoài cầu tàu để tiễn những người được định cư, đi đến các nước đã nhận cưu mang họ. Con tàu xa dần bến, người đưa tiễn khuất dần trong tầm nhìn. Nỗi cô-đơn ngập trong tôi, tôi cảm nhận kể từ phút đó, tôi mất tất cả những gì gọi là hình bóng Viêt-Nam.Tôi gục đầu vào thành tàu, nghe những thổn thức tràn ngập trong lòng. Tôi khóc.
    *
    Ba mẹ nuôi nguời Do-Thái của tôi không có con. Họ đã có hai người con nuôi trước khi nhận tôi. Ba nuôi tôi có một nông trại trồng cam còn mẹ nuôi tôi là một giáo sư ngôn ngữ học. Hai người anh của tôi là một người da màu, gốc Madagascar còn nguời anh kia gốc Ai-cập.Trong ba người, tôi nhỏ tuổi nhất, kém người anh cả tám tuổi, kém người thứ hai năm tuổi.

    Chúng tôi được nuôi ăn học đàng-hoàng, sống rất hòa thuận và đều theo Do-Thái giáo. Bà mẹ nuôi tôi hay than với tôi: “Đất nước của con sao mà nhiều thống khổ quá! chỉ tội cho người dân.. Con cố học hành và đừng quên tiếng Việt, sẽ cần cho con sau nầy khi con muốn tìm về cội nguồn.”

    Khi tôi lên trung học, mẹ nuôi tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Việt. Trong những giờ dạy tiếng Việt, bà yêu cầu tôi kể những gì liên quan đến gia đình tôi mà tôi còn nhớ được.Tôi kể bằng tiếng Việt gia đình và về hoàn cảnh của tôi. Mẹ tôi đã ghi lại trên giấy và vào buổi cơm tối ngày hôm sau bà đọc lại cho mọi người trong gia-đình cùng nghe bằng tiếng Do-Thái. Sự việc nầy kéo dài hàng năm cho đến lúc tôi không còn nhớ gì thêm để kể lại. Sau này những lúc chỉ có hai người, mẹ nuôi tôi thường nói tiêng Việt với tôi. Bà bảo đã hai lần đi Việt-nam, tim đến những nơi mà tôi đã kể cho bà nghe để tim tin tức gia-đình tôi nhưng vô hiệu. Có lẽ tri nhớ và số tuổi nhỏ của tôi đã không kể lại đủ chuyện gia-đình cũng như nơi chốn gia-đình tôi sinh sống trước đây cho bà nghe.

    Sau khi tốt nghiệp đại-học, tôi được học bổng của trường đại học Sorbonne Pháp để học tiếng Pháp tại Paris. Một hôm đang ăn trưa tại một tiêm phở thuộc khu phố người Việt quận 13, một bác phục vụ nhà hàng lại bàn nói chuyện với tôi. Bác hỏi thăm và cho biết bác cũng là người gốc quận ba Đà-nẵng trước đây. Bác và gia-đình vượt biển sau khi thành-phố Đà-nẵng bị mất vào tay Cộng-sản. Bác khoe có trở về Đà-nẵng vài lần, nên bác cho biết các sự đổi thay và chỉ dẫn tôi cách tìm đường về nơi tôi đã đuợc sinh ra và lớn lên. Bác khuyên tôi nên về Đà-nẵng một chuyến để tìm lại gốc gác gia đình.
    *
    Tôi đi dạy dược hai năm thì cưới vợ và rồi có hai con, một trai một gái. Khi đứa con trai đầu của tôi được tròn bốn tuổi, tôi mua cho nó một chiếc xe đạp nhân ngày sinh-nhật của nỏ. Khi đem chiếc xe về nhà, kỷ niệm của ngày xa xôi ở quê nhà trở về …tôi nằm trên võng nghe mẹ tôi đọc lá thơ của ba tôi viết từ chiến trường…ba hứa khi về nhà sẽ mua cho tôi chiếc xe đạp mừng sinh-nhật …nhưng rồi mơ uớc đó không bao giờ đến. Nhìn con trai tập đạp xe, tôi ứa nước mắt, bùi ngùi nhớ lại tuổi thơ của mình, tội nghiệp cho thằng bé là mình hai chục năm trước. Tôi tự hỏi nếu ngày đó tôi có được chiếc xe, không biết tôi có những cử chỉ vụng về, loạng quạng khi tập đạp xe như con tôi bây giờ?
    Tôi hay nói với vợ tôi,”Cho đến tuổi nầy, anh chưa bao giờ bước lên yên xe đạp”. Vợ tôi an ủi: “Anh lại trở về với quá khứ rồi, hãy quên đi!”
    Tôi chỉ biết thở dài…Làm sao mà quên được!
    *
    Mùa hè năm 2010, mẹ nuôi tôi khuyên tôi nên trở về Đà nẵng tìm thăm tin-tức gia-đình. Nếu tôi tìm được, bà định sẽ đem hết đại gia đình cùng đi với tôi trong một chuyến đi sau.

    Tôi về đến Đà-nẵng. Theo lời hướng dẫn của cô tiếp-viên khách-sạn và những chi tiết bác đồng-hương tại một nhà hàng bên Pháp cho biết năm nào, tôi tìm đuờng ra bờ sông Hàn rồi tìm phà qua sông. Bến phà này mấy mươi năm trước anh hai đâ đưa tôi qua lại mấy lần để đến bịnh-viện bán máu lấy tiền mua gạo. Mọi vật đã đổi thay, phà đã ngừng đưa khách, chiếc cầu mới đã được bắt ngang hai bờ sông. Bác xe ôm lớn tuổi chở tôi chạy vòng qua bao nhiêu khu phố mà ở cái tuổi tôi thời ấy chưa có, bây giờ các khu phố đã mọc lên che lấp những bờ dương và bãi cát cùng sóng biển.Tôi ra đi ở cái tuổi lên năm, chưa có ý-niêm gì về tên làng, tên xóm, tên phường, tên con đường hẻm chạy qua trước nhà….nên bao nhiêu năm qua tôi không thể nào liên lạc đuợc về nhà cũ, quê hương dường như đă chết trong tôi.Tôi nhờ bác lái xe ôm hỏi thăm và đưa tôi đến nơi có bến ghe cá mấy mươi năm trước. Tôi hy vọng từ đó tôi sẽ tìm ra nhà cũ của ba mẹ tôi. Bác lái xe ôm đã đưa tôi đến bến ghe cá cũ, nhưng nay chỉ còn cái tên của ngày trước vì bến đã dời đi nơi khác, thay vào đó là một khách-sạn đã được xây lên cùng những ngôi nhà cao tầng.Tôi hỏi thăm nhà ba mẹ tôi, hỏi thăm nhà bác Hội, hỏi thăm tên anh hai tôi, mọi người đều lắc đầu, trả lời với một giọng nói có âm sắc cao và sắc mà tôi chưa hề được nghe khi còn thuở thơ ấu.

    Lòng nặng chĩu và thấy lạc-lõng, tôi rưng rưng muốn khóc. Cả buổi trưa tôi lang-thang, từ khu nầy qua khu khác, áo đẫm mồ hôi, tôi đứng tựa vào một tường nhà có bóng mát tránh nắng.Tôi đã định quay trở về khách sạn nghỉ và sẽ tiếp tục trở lại khu nầy ngày hôm sau. Bỗng tôi nghe có tiếng ve sầu vang lên đâu đây nghe thật buồn não. Ngày xưa trong xóm chỉ có nhà tôi có cây phượng vĩ. Mùa hè hoa nở đỏ rực, lũ ve sầu từ đâu đến buông tiêng kêu râm ran và rầu rĩ, như ru tôi ngủ trong những buổi trưa hè nóng bức. Khi có cơn gió mạnh, những cánh phượng rơi lả tả xuống sân nhà, mẹ tôi cầm chỗi quét. Một lần tôi nghe mẹ tôi phàn nàn với ba tôi: “Anh ơi, hãy đốn cây phượng làm củi cho rồi. Ngày nào cũng quét hoa và lá rụng, mệt quá”. Ba tôi cười trả lời: “Cây phượng nầy do ông nội trồng để tưởng nhớ bà nội sau khi bà nội chết, bà nội mấy đứa nhỏ tên Phượng, mình không đốn cây được đâu.” Tôi lần đi về hướng có tiếng ve rên-rĩ..màu đỏ của hoa phượng chan hòa trước mắt tôi: một cây phượng to lớn im lìm dưới nắng chói chang…Tôi dừng chân bên cây phượng được trồng ngay bên cổng vào một căn nhà…

    Tôi nhìn kỹ, hình ảnh ngôi nhà xa xưa của tôi hiện ra rõ ràng trong trí nhớ. Tôi đã tim ra được nhà tôi. Hàng hiên không có gì đổi thay, tất cả còn nguyên như cũ.Tôi lặng nguời vì vui mừng. Lòng hồi hộp nhưng cố giữ bình -tĩnh, một lát sau, tôi gọi vọng vào bên trong:
    – Có ai trong nhà không, cho tôi hỏi thăm? ” Tôi gọi đến lần thứ ba thì cánh cửa nhà hé mở, một đứa bé trai bước ra nhìn tôi rồi vội quay vào đóng cửa lại.

    Tôi kiên nhẫn chờ. Cánh cửa lại mở, một người đàn ông râu tóc bạc phơ chống nạng bước ra. Tôi nhận ra ngay bác Hội ngày xưa của tôi. Bác già quá nhiều. Bác chống cây nạng gỗ mà người cứ run run. Bác lấy tay che trán nhìn tôi. Tôi bồi-hồi, xúc-động nói lớn:
    – Bác Hội còn nhớ con không? Con là Tấn em đây. Bác đi khập khiễng ra cổng, giọng lắp bắp:
    – Tấn em hả? con còn sống hả? Trời ơi! con còn sống hả?.. Vào đi, vào đi con.
    Hai bác cháu loạng choạng ôm nhau, cả hai cùng khóc, khóc vì mừng gặp lại nhau và khóc cho thân phận của mỗi người và thân phận của nhau. Tôi theo bác vào nhà, đưa mắt nhìn quanh, vội hỏi bác:
    – Ba mẹ cháu đâu? anh hai cháu đâu bác?” Bác khựng lại rồi nói:
    – Chuyện còn dài, rồi bác sẽ kể lại cho con nghe. Con ngồi nghỉ cho khỏe đã!

    *
    Và bác kể:
    “Ngày mẹ con đi Huế tìm thăm ba con bị thương ở Quảng-tri và được đưa vào điều trị tại bịnh-viện Huể đến nay, bác chỉ nghe bạn đồng đội của ba con kể lại. Khi mẹ con ra đến bịnh viện thì ba con đã bị chính quyền mới của Cọng-sản đuổi ra khỏi bịnh viên cùng với các đồng đội khác cũng bị thương. Những người thương-binh và các nguời nuôi bệnh cùng cảnh này tụ-tập sống dưới chân cầu Tràng-tiền, nhờ vào sự giúp đỡ của dân chúng. Sau đó họ dìu dắt nhau theo quốc lộ 1 trở về Đà-nẵng, ngày xin ăn, tối ngủ bờ ngủ bụi. Khi đến Cầu-Hai thì ba con kiệt sức vì vết thương làm độc nên chết tại đây. Sau khi được dân Cầu-Hai giúp chôn cất ba con xong thì ngày hôm sau mẹ con, lúc đó cũng đau yếu, thất thểu đi một mình trên đuờng vào Đà Nẵng. Rồi từ ngày ấy đến nay, không ai biết tăm tích của mẹ con ở đâu nữa. Chắc là chết ở đâu rồi, vì nếu còn sống mẹ con thế nào cũng tìm về nhà ở Đà nẵng với hai anh em con.”

    Tôi gục đầu xuống bàn, thổn thức. Giọng bác đều đều:
    ” Khi con mất tích, anh hai con, gia-đình bác cùng bà con lối xóm ngày đêm tìm kiếm hoài không ra. Anh hai con buồn lắm, sống như một cái bóng thui thủi trong căn nhà này – bác nhìn quanh nơi bác và tôi đang ngồi. Ba năm sau, anh hai con đến tuổi “thi hành nghiã vụ quân sự” thì bị đưa qua chiến trường Campuchia. Chỉ sáu tháng sau, địa phương báo cho bác biết anh hai con đã tử thương. Người ta hứa sẽ đưa xác về, nhưng đó chỉ là lời hứa suông thôi, không bao giờ có xác về. Bác đã lấy một mảnh đất sau vườn nhà con xây một ngôi mộ nhỏ, lập bia chung cho cả ba người, ba mẹ con và thằng Tấn anh của con. Hằng ngày bác thắp nhang cho linh hồn ba mẹ con và anh hai con khỏi lạnh lẽo. Còn riêng phần con, bác nghĩ là con không chết, có lẽ con đã đi lạc đến một nơi nào đó, có người đem về nuôi, một mai khôn lớn con sẽ tim ra gốc gác gia đình để trở về... Anh hai con cũng có ý nghĩ như bác nên trươc ngày bị đưa đi Campuchia, anh con đã giao hết giấy tờ nhà đất cho bác giữ hộ và dặn:”Nếu con có mệnh hệ nào thì xin bác giao lại cho thằng Tấn em con.” Bác giữ đã lâu mà vẫn không có tin tức gì của con, bác sợ chính quyền sẽ tịch thu căn nhà nên bác đã xoay sở sang tên ngôi nhà cho bác, nhờ vậy, cái nhà vẫn còn. Nay con trở về, bác sẽ giao nhà lại cho con.

    Tôi theo bác ra sau vườn, ngôi mộ nằm bên một góc vườn. Mộ bằng xi-măng, sạch sẽ. Tôi đọc tên ba, mẹ và anh hai tôi ghi trên mộ bia. Tôi quỵ người xuống, gục đầu vào thành bia, nước mắt trào ra. Lòng tê tái, tôi đau đớn nghĩ đến cha mẹ, đến anh hai tôi và tự xót thuơng cho thân phận mình mồ côi, cô độc, tìm ra gốc gác gia đình chỉ để nhận thêm một sự thực rằng truớc sau gì tôi vẫn không còn cha mẹ, anh em, không có ai là người ruột thịt…đến lúc bác Hội nắm tay kéo tôi đứng lên, đèn trong nhà bác đã thắp sáng.

    Ngày hôm sau, tôi vẫn giữ căn phòng ở khách-sạn nhưng về sống với gia-đình bác Hội. Một hôm bác đưa tôi dạo quanh xóm cũ, phần lớn dân cư tù nơi khác đến.Tình cờ ngang qua một tiệm sửa xe, tôi gặp Hiền, người bạn cùng học lớp mẫu giáo với tôi ngày xưa. Hai đứa nhận ra nhau. Cả hai bồi hồi, xúc-động. Bằng tuổi tôi nhưng Hiền mang dáng dấp của một ông lão. Ba của Hiền, ngày xưa là Trung-úy của quân lực Việt Nam Cọng-hòa. bị chính-quyền mới bắt đi tù cải-tạo ở Trung–phước rồi chết tại đó.Vì có lý-lịch con của “ngụy” nên Hiền không tìm đươc công ăn việc làm, nên đành lấy hiên nhà làm tiệm sửa xe từ mấy chục năm nay. Con cái học hành không tới đâu, nhà quá nghèo.Vợ cũng phải phụ chồng sửa xe. Bất chợt cơn mưa rào chợt đến. Hiền vội vã tìm thau và chậu đề hứng nhưng cả tiệm sửa xe vẫn tràn đầy nước từ trên mái đổ xuống. Hiền nói: “Cái nhà đă ‘rệu’ từ chục năm nay, không tiền để sửa, bây giờ lo cái ăn cho gia-đình khỏi đói là đủ mệt rồi”. Tôi nghe mà lòng bỗng dưng cồn-cào như bị cái đói ngày xưa hành hạ, cái đói mà anh Hai tôi phải bán máu, chất dinh dưỡng cơ thể để đổi lấy cái ăn mà sự dinh-dưỡng cơ thể đang cần…một cái vòng lẩn quẩn khốn-nạn của nhu cầu sinh tồn.

    Buổi chiều truớc ngày từ giả gia-đình bác Hội để về lại Do-Thái, bác cùng tôi ngồi tâm-sự trong phòng khách. Bác kể lại tình bạn giữa bác và ba tôi, kể đến đâu, bác thở dài đến đó, bác ngậm ngùi nhớ đến kỷ niệm của một thời đă qua.Tôi tựa đầu vào thành ghế, tai chăm chú nghe nhưng mắt lơ đãng nhìn lên trần nhà. Tôi hướng mắt về phía cái kèo nhà có cái khe nứt, sực nhớ lại chuyện ngày trước bác Hội đã thúc hối anh hai tôi tháo cờ ba sọc đỏ dấu đi….anh hai tôi đã leo cột nhà đem dấu vào chỗ khe nứt đó…bỗng nhiên tôi đứng lên đi vòng vòng trong phòng khách, mắt cứ nhìn chăm chăm vào khe nứt trên kèo nhà. Có lẽ bác Hội ngạc nhiên nên hỏi tôi:
    – Con tìm cái chi rứa? Tôi trả lời:
    – Bác còn nhớ,ngày xưa khi cọng sản vào thành phố, bác thúc anh hai con đem cây cờ ba sọc đỏ giấu đi và anh Hai con đã đem lá cờ giấu vào cái lỗ đó”, tôi vừa nói vừa chỉ tay lên lỗ nứt trên kèo nhà. Bác Hội “ờ” lên một tiếng rồi nói “thằng ni nhớ dai ghê, như vậy thì nó còn ở đó; từ đó cho tới ni, chỗ đó không ai động đến, mà lâu quá không biết lá cờ có mục có nát không?”
    Nói xong bác tiến đến cửa lớn nhìn ra ngoài và nói với vẻ thận trọng:
    – Sắp nhỏ chạy chơi đâu hết rồi, con muốn xem cái đó thì leo lên xem thử.
    Nói xong bác khép cửa lại, gài chốt ngang.Tôi đã định xin phép bác leo lên xem thử lá cờ còn đó không, thì nghe bác khuyến khích làm tôi vừa sung-sướng vừa hồi hộp. Tôi đang loay hoay tìm cách leo lên cây cột (nhà xây theo kiểu xưa, có nhiều cột) thì bác đẩy cái bàn đèn sát cây cột nhà rồi để thêm cái ghế lên trên bàn, bác nói:
    – Làm như thế ni leo dễ hơn!
    Tôi thận trọng bước lên bàn, bước lên ghế, dùng hai tay đu lên sà nhà. Tôi chợt nhớ đến anh hai tôi, hồi đó anh leo lên cột sao dễ dàng và nhanh nhẹn như sóc vậy.
    Tôi thọc tay vào khe hở bên kèo nhà, tay chạm vào một vật mèm mềm, kéo ra, một cuộn vải màu vàng đã phai màu..Tôi nói với bác Hội:
    – Nó còn đây bác ơi!. Tôi ném cuộn vải màu vàng xuống cho bác.. Bác nhặt cuộn vải lên, mở ra, tay giũ giũ mấy lần, lá cờ ba sọc đỏ hiện ra trước mắt tôi…tôi nghe bác nói:
    – Còn nguyên si, chỉ bạc màu chút thôi. Tôi tuột xuống đứng bên bác. Bác trùm lá cờ lên đầu bác. Tôi nghe bác hít…mấy cái rồi bác lặng yên, chừng một phút sau bác lấy lá cờ ra khỏi đầu. Tôi nhìn thấy hai mắt bác đỏ và long lanh nước. Bác trao lá cờ cho tôi giữ và mở cửa đi ra ngoài rồi quay lại với một lọ thủy tinh trên tay, bác nói với tôi:
    – Con cuộn lá cờ lại bỏ vài cái lọ ni, đem ra chôn bên mộ của ba con, ba con chết không có ai phủ cờ, mình nay đem chôn cạnh ba con như rứa ba con cũng ấm lòng.
    Tôi cuộn lá cờ cho vào lọ, đậy nắp lại. Bác và tôi cùng đi ra ngôi mộ sau vườn. Bác dùng con dao chẻ củi đào một cái lỗ trên đầu mộ, tôi để cái lọ vào đó và bác lấp đất lại.Tôi nghe giọng bác thì thào như nguời tâm sự:
    – Tổ quốc chưa kịp ghi ơn em thì Tổ quốc đã mất.Tổ quốc chỉ còn một chút nầy, em mang theo để sống với kỹ niệm của một giai đoạn lịch-sử…và biết đâu Tổ quốc sẽ sống lại với con cháu của chúng ta sau nầy.
    Chiều hôm đó tôi từ giã gia-đình bác Hội.Trên đường đi từ trong nhà bác ra đường lớn đón xe để về khách-sạn, bác nhắc tôi:
    – Con nhớ đừng quên giúp đỡ Hiền, thằng bạn của con. Nó cần sửa lại căn nhà dột nát của nó, không biết cả đời nó có tiền sửa được không. Tôi nói:
    – Bác yên tâm, con sẽ giúp tận tình, con sẽ chuyển tiền về cho bác để bác đưa cho Hiền. Nếu không đủ con sẽ chuyển thêm cho đủ.
    Tôi lại nói với bác:
    – Dường như cả đời, bác đã lo hết cho gia đình ba mẹ con và anh em con, con nhớ ơn bác vô cùng. Nay bác có tuổi rồi, bác nên quan tâm cho sức khỏe bác nhiều hơn”.
    Bác nắm chặt tay tôi hỏi:
    – Còn ngôi nhà của ba mẹ con, con tính sao đây? Nay con còn đó, bác tiếp tục giữ nhà thì lòng bác ngại quá..!
    Tôi trả lời trong nghẹn ngào:
    – Tình cảm và công ơn bác dành cho gia-đình con như trời biển, có một trăm ngôi nhà như vậy cũng không thấm vào đâu đối với tấm lòng của bác… Con chưa bao giờ có một ý nghĩ nào về ngôi nhà đó là của ba mẹ con hay của con. Nó là của bác… nó là của bác. Bác nên lo cho Bác nhiều hơn!
    *
    Thay vì đi máy bay từ Hà-nội thẳng về Do-thái, tôi đổi vé đi Paris. Nước Pháp có vài ngôi chùa Việt-nam còn bên Do-thái không có.
    Tôi tìm đến một ngôi chùa ở ngoại ô Paris để xin lập bài-vị thờ ba mẹ và anh hai tôi theo như lời bác Hội khuyên.
    Vị-sư trụ trì chùa tiếp tôi sau chánh điện, hỏi:
    • Anh cho biết tên thân-sinh của anh.
    • Tên cha?
    • Đoàn-minh-Tiếng.
    • Ngày và năm sinh?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.
    • Ngày và năm chết?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.
    • Pháp-danh?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.

    Vị sư trụ trì nhìn tôi với đôi mắt khác thường, rồi lắc đầu:
    • Ngày sinh, tháng đẻ của cha anh mà anh không biết, lạ thật!
    • Vậy tên của mẹ anh là gì?
    • Nguyễn-thị kim Ngân.
    • - Ngày và năm sinh?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.
    • Ngày và năm chết?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.
    • Pháp-danh?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.
    Vị sư trụ trì đứng dậy đi tới đi lui rồi nhìn tôi với đôi mắt nheo lạỉ như nghi ngờ như tôi đang đùa với ông một cách không nghiêm chỉnh.
    Sư lại ngồi xuống, hỏi tiếp:
    • Anh còn muốn lập bài vị cho ai nữa không?
    • Dạ, còn người anh.
    • Tên gì?
    • Đoàn-tấn Anh.
    • Ngày sinh và năm sinh?
    • Da, thưa thầy con không biết.
    • Ngày chết và năm chết?
    • Dạ, thưa thầy con không biết.
    • Pháp-danh?
    • Da, thưa thầy con không biết.
    Thầy trụ trì ném cây bút xuống bàn rồi niệm Phật:
    • “Nam mô A-di-Đà-Phật”
    Thầy thở dài hỏi tôi:
    • Anh muốn lập bài vị để thờ người thân trong chùa mà không nhớ ngày sinh tháng đẻ, ngày chết, Pháp-danh thì chùa làm sao cúng kiến cầu siêu được?
    • Dạ thưa thầy, con lạc gia-đình cha mẹ và anh con từ lúc năm tuổi nên con không biết ngày sinh tháng đẻ...
    DuyTrac-AuOanh

    Comment


    • Font Size
      #3


      CHUYỆN MƯU SINH THỜI BAO CẤP !









      Comment


      • Font Size
        #4


        - NGƯỜI THIẾU PHỤ ÔM CỐT CHỒNG ĐI TRONG MƯA PHÙN GIỮA NÚI RỪNG VIỆT BẮC !

        (Viết để tưởng nhớ quý chiến hữu Quân, Cán, Chính VNCH đã gục chết tủi hờn và oan khiên trong lao tù khổ sai của bọn cộng sản vô nhân, và cũng để tuyên dương những người vợ lính VNCH, đặc biệt là chị quả phụ của cố Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia VNCH Trần Thiên Thọ Hải. ....)






        ... Tình hình sức khỏe anh em khi còn ở các trại do quân đội Việt cộng quản lý đã tồi tệ, thì nay càng tồi tệ hơn dưới sự hà khắc, dã man và ác độc của bọn công an, mà anh em tù quen gọi là bọn “chó vàng”.

        Tiêu chuẩn ăn uống thì bị bọn chúng cắt xén ăn bớt.

        Mỗi bữa ăn chỉ được một thìa cơm với hai khúc sắn tươi, hoặc gần chục lát sắn khô hay một chén sắn duôi (loại sắn được nạo thành sợi hay xắt thành cục phơi khô), vài muỗng canh đại dương (nước muối với vài cọng rau già), hoặc một vài miếng sắn được nấu với muối cho nhừ để làm canh.

        Họa hoằn, một đôi ba tháng vào các ngày lễ, Tết thì được một chén cơm trắng với hai ba miếng thịt heo to bằng đốt ngón tay, hoặc một vài miếng thịt trâu từ một con trâu già đã không còn kéo cày nổi hay bị chết vì không chịu nổi cái lạnh mùa đông.

        Với chế độ ăn uống vô cùng thiếu thốn như vậy mà phải làm việc khổ sai cực nhọc, dẫn đến tình trạng kiệt lực, người nào cũng chỉ còn da bọc xương. Mỗi buổi chiều, hết giờ lao động, anh em tù cởi áo xuống ao tắm, trông như một bầy khỉ ốm đói tội nghiệp.

        Tình trạng bệnh tật và không có thuốc men thật là đáng sợ , bệnh kiết lỵ, phù thủng và thổ huyết rất phổ biến.

        Đã có một số anh em chết mà anh em tù quen gọi là “quay đầu về núi” vì hầu hết tù nhân chết đều được chôn trên các sườn đồi.

        Xin đơn cử một vài cái chết của vài anh mà tôi có dịp ở chung.

        Thiếu Tá Hà Sỹ Phong, Phó Giám Đốc Đài Phát Thanh Tự Do, anh ở cùng đội với tôi, mấy ngày trước anh bị bệnh nên cho nghỉ ở nhà trực phòng, sau đó 2 ngày anh được mẹ ở miền Bắc lên thăm .

        Buổi tối anh cho tôi nửa chén cơm vắt và hai miếng thịt gà kho mặn, anh thì thầm tâm sự :

        - Năm 54 tôi di cư vào Nam chỉ có một mình, ông bà cụ luyến tiếc tài sản không chịu đi, bố tôi bị đi tẩy não (tù cải tạo) trong đợt cải cách ruộng đất và chết trong tù, bây giờ mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi lại phải đi thăm con ở tù.

        Đây là lần đầu gặp lại mẹ tôi sau hơn hai mươi năm xa cách.

        Nói rồi hai hàng nước mắt anh lăn dài trên má. Tôi lí nhí cám ơn anh về món quà anh đã cho tôi. Sau gần 3 năm tù, đây là lần đầu tiên tôi được thưởng thức một món ăn quá sang trọng như vậy. Tôi xé từng sớ thịt, rồi lại liếm mấy ngón tay, tận hưởng cái hạnh phúc to lớn ấy rồi thiếp dần vào giấc ngủ.

        Sáng hôm sau, khi ra khỏi phòng để điểm danh thì thiếu một người, tên thường trực thi đua (một tên tù được đưa lên phụ việc đóng mở cửa và kiểm soát anh em) đi vào thì phát hiện anh Phong đã mê man. Chúng tôi vội cõng anh lên trạm xá nhưng anh đã chết vài giờ sau đó. !

        Ít ngày sau lại đến anh Trung Tá Lạc, Phòng 2 Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Một buổi chiều sau khi lao động về, anh Lạc ghé sang khu tôi ở, móc trong túi ra một cái bánh chưng đưa cho tôi và nói :

        - Hai cháu nó mới ra thăm, cả hai đều được đi dậy học lại và là “giáo viên tiên tiến” nên được cho ra thăm “lăng Bác”.

        Nó tìm lên thăm mua cho ít quà, chú dùng cái bánh chia vui với tôi, mấy ngày nữa các cháu sẽ lại lên thăm tôi lần nữa. Tôi đón cái bánh chưng to bằng cái bánh trung thu và lí nhí cám ơn anh rồi vội chia tay, vì sợ tụi cán bộ trông thấy sẽ ghép tôi quan hệ trái phép .v.v..

        Quả thật, những lúc đói khát khó khăn thế này mới thấy cái tình dành cho nhau nó to lớn và sâu đậm. Nhưng rồi không may cho anh, hai hôm sau anh đã chết ngay tại hiện trường lao động không kịp gặp lại các con.!






        Giữa năm 78, vì đói khát suy dinh dưỡng, cộng thêm cơn sốt vàng da đã khiến tôi kiệt lực, thân thể chỉ còn trên 30kg. Tôi không còn bước đi được nữa, mà chỉ có thể bò được vài ba thước, tôi được đưa xuống trạm xá nằm trong “danh sách chờ”.

        Tại đây đã có anh Tư, anh là người hạm trưởng đã sang đến Singapore rồi lại quay về, anh bị bệnh phù thủng lại thêm phần ân hận vì đã quay về để rồi bị đi tù mút chỉ, nên chỉ ít ngày thì anh chết.

        Rồi đến Trung Tá Mai Xuân Hậu, Tỉnh Trưởng Kontum,

        Thiếu Tá Đặng Bình Minh lái trực thăng cho Tổng Thống Thiệu, Trung Tá Lý. !

        Dường như chẳng còn ai quan tâm đến cái chết, chả thế mà vẫn còn nói đùa :

        “ Đ.M. mày qua mặt tao mà đíu bóp còi !”.

        Cũng thời gian này, có một bài hát đã được anh sáng tác tôi vẫn còn nhớ được ít câu :

        “Rồi một ngày mai không có anh, em không còn phải nhớ phải mong

        - Rồi một ngày mai thân xác anh quay đầu về núi

        - Cô đơn ngồi khóc một mình

        - Không một lần kịp vuốt mắt anh

        - Ôi mây lang thang về phía trời xa vời,

        nhìn trông theo cánh chim từng đàn,

        để mình ta với bao ngày tháng xanh rêu,

        bụi thời gian lấp kín hồn mình,

        đớn đau trong lòng mà nhớ về nơi xa,

        ôi ngày về còn dài bao lâu

        - Rồi một ngày mai anh chết đi, em không còn phải khóc phải thương

        - Rồi một ngày mai thân xác anh đi vào lòng đất, cô đơn phủ kín đời mình.

        - Không một lần kịp nói tiếng yêu.”

        Nhưng rồi may mắn hơn, số tôi chưa tới, nên căn bệnh sốt vàng da không biết có phải nhờ ba cái lá ổi, lá xoan hay không, mà tự nhiên biến mất.

        Và may mắn thay, nhờ mảnh giấy tôi gửi lén về qua một chị ra thăm chồng, tuy bị tụi công an phát giác, nhưng chị cũng đã nhớ cái địa chỉ ở Biên Hòa, nên chị đã đi tìm báo cho gia đình tôi biết.

        Nhờ vậy, cuối năm 79, mẹ tôi và vợ con tôi ra thăm, tên Vinh, cán bộ giáo dục của trại, trước khi tôi ra gặp đã chỉ cho tôi gặp 5 phút vì tôi đã gửi lén thư, nhưng tên công an dắt tôi ra đã cho tôi gặp gần một giờ.

        Gặp lại mẹ và vợ con sau hơn 4 năm chỉ biết khóc. Chỉ nói được vài câu thì đã hết giờ, tôi đứng dậy chào từ biệt, lòng buồn rã rượi, rồi chống gậy lom khom lết về trại, một tên tù hình sự được chỉ định giúp tôi đẩy cái xe cải tiến chở đồ thăm nuôi vào trại.

        Nhờ chuyến ra thăm này mà tôi dần dần hồi phục, lúc này mỗi tuần đều có một vài anh em “quay đầu về núi”. Cái đồi sắn ở phía đội 12 sau hơn hai năm đã có gần 300 anh em tù chính trị được chôn ở đó.



        [/img]https://scontent.fyyz1-1.fna.fbcdn.net/v/t1.0-9/131787042_799611390619387_6815230919581485931_n.jp g?_nc_cat=104&ccb=2&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=6xqrjoq teq0AX8oblDn&_nc_ht=scontent.fyyz1-1.fna&oh=04547f72b543e30ad1392c5916a0df6e&oe=60068 E64[/img]



        Gần tết năm 79, tôi chuyển sang đội 17 lâm sản, chuyên đi lấy củi để sử dụng cho bếp trại. Thời gian này, do áp lực của quốc tế, nên chúng buộc phải cho gia đình những người tù VNCH đi thăm nuôi, nên sức khỏe của đa số anh em đã dần dần hồi phục. Một số anh em “con bà phước” cũng được anh em đùm bọc, nên cái bóng thần chết đã bị đẩy lùi.

        Hàng đêm tại các phòng, anh em lại tụ tập quanh ngọn đèn dầu với ấm trà cặm tăm, loại trà thật đặc được pha hoàn toàn bằng búp trà “hai tôm một tép” sao sấy cẩn thận, do anh em đội trà lén mang về.

        Các tay văn nghệ lại bắt đầu tổ chức ca hát nhạc vàng hàng đêm, khiến tụi cán bộ trại điên đầu, chúng bắt đầu cảm thấy hoang mang vì thấy tù càng bị nhốt lâu lại càng ung dung tự tại, không còn hoang mang lo sợ, lại thêm đám cán bộ nhí bắt đầu bị anh em tù thu phục.

        ... Anh em đã san sẻ thuốc men cho dân ốm đau trong vùng, khi đi lao động ngoài Bến Ngọc. Anh em thường gọi đây là công tác dân sự vụ. Một buổi tối cuối năm, sau khi đã điểm danh vào phòng, anh em đang tụ tập đàn hát như thường lệ, lúc kẻng báo tắt đèn đến giờ ngủ thì tên cán bộ trực tại trại đến cửa phòng nói vọng vào yêu cầu Phan Thanh đội trưởng lâm sản cử 4 người đi “ lao động đột xuất ” .

        Thanh, Diệp, Tân và tôi mặc quần áo cho thật ấm và cũng không quên mang theo tấm nylon đề phòng mưa, vì mùa đông miền Bắc thật lạnh, lại thường có mưa phùn.

        Chúng tôi được lệnh xuống chỗ đội 12 lấy cuốc xẻng và thùng xách nước bỏ lên xe cải tiến đi về phía khu nhà tiếp tân. Tên cán bộ đi theo đưa cho tôi cái đèn bão leo lét. Ngang khu nhà tiếp tân thì đã thấy một thiếu phụ trong bộ đồ tang trắng đang đứng đợi.

        Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra Đại Úy Hải đã chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút, chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc.

        Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam. Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sang. Chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

        Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “ khẩn trương ” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào.

        Chỉ không đầy 20 phút, chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa.

        Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự :

        – Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

        Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình. Mới đây, một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt. Sau mấy lần làm đơn, cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp qua đêm với lý do là ô uế.
        Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy.

        Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo. Bỗng, sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng :

        – Đ.M.! Rồi có ngày chúng mày sẽ phải trả giá cho hành động tàn ác này ! Rồi chúng mày cũng sẽ bị quả báo !

        Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.

        Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị cô đơn mang hài cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh rét mướt của vùng rừng núi Việt Bắc ; như những người vợ, người mẹ Việt Nam vẫn còn đang phải oằn mình mang nặng nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả Dân Tộc Việt Nam đi trong đêm tối bão bùng về một phương vô định, ảo tưởng ...







        (Sài Gòn trong tôi/ Đoàn Trọng Hiếu)

        Comment


        • Font Size
          #5
          còn một thằng làm chủ tịt xuỡng đẽ nữa ..hahhaha

          Comment


          • Font Size
            #6

            VƯỢT BIÊN 1975







            Comment


            • Font Size
              #7

              HÁT CHO SÀI GÒN QUẬT KHỞI - HỌP CA ASIA - ĐOÀN CA RA KHƠI





              Comment


              • Font Size
                #8
                THIẾU TÁ HỒ ĐĂNG NHỰT : ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT






                Tưởng Niệm Chiến Sĩ QLVNCH

                Viết theo chuyện kể của phu nhân Cố Thiếu Tá Lực Lượng Đặc Biệt / Sở Liên Lạc Nha Kỹ Thuật / Lôi Hổ - Hồ Đăng Nhựt.
                EM KHÔNG NHÌN ĐƯỢC XÁC CHÀNG

                "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong"


                Thành kính đốt nén tâm hương, tưởng niệm đến những anh linh chiến sĩ QLVNCH, và đồng đội đã bỏ mình trong cuộc chiến bi hùng cho Tổ Quốc Việt Nam nhân mùa Quốc Nạn - THÁNG TƯ ĐEN.

                Lưu Trùng Duơng

                Tôi lập gia đình sớm, năm tôi 18 tuổi đã theo chồng ra Nha Trang. Trong thời chiến, tôi cũng như bao thiếu nữ khác phải chấp nhận đời sống vợ của một chiến binh.

                Chồng tôi là một sĩ quan mới ra trường năm 1962, anh đã tình nguyện vào đơn vị Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB), một đội ngủ làm Cộng quân khiếp viá, đối với Cộng quân những người chiến sĩ này là hình ảnh của tử thần, là đội binh tinh nhuệ -đến trong âm thầm và ra đi trong lặng lẽ, để lại bao kinh hoàng và khiếp đảm đối với chúng. Nhất là " đàn con của bác " được nhồi sọ từ một chủ thuyết Nga-Tàu, tràn qua giòng Bến Hải đau thương, chứng tích chia lià Nam Bắc. Vượt trường sơn mang theo cuồng vọng, đôi dép râu lê lết bằng những hình hài không tim óc ' sinh Bắc tử Nam "dẫm trên đường mòn Hồ Chí Minh ô nhục, một kẻ tội đồ của lịch sử, của dân tộc.

                Chồng tôi là một sĩ quan trưởng toán Delta của đơn vị, tôi yêu anh ngoài cái vóc dáng phong sương, thêm vào hình ảnh hiên ngang, oai hùng của nét trai thời đại. Có địa danh nào thiếu dấu chân anh ? Từ vùng đất Lào vi vu gió tanh mưa máu, Pleimer gió núi mưa rừng, Đồng Xoài, Bình Giả... máu đổ thịt rơi. Tận đỉnh gió rét mưa phùn của đất Bắc hiểm nghèo chập chùn bất trắc, hiểm họa rình rập theo những bước chân xâm nhập, nổi chết toa rập cùng sương lam chướng khí trực chờ !!!






                Nha Trang, quê hương có rặng thuỳ dương và bờ cát trắng, đơn vị chồng tôi được đồn trú tại đó vào năm 1964. Căn cứ trưởng là ông đại úy Nguyễn văn Khách, vị sĩ quan này đã thành lập 5 toán nhảy, mổi toán không hơn 6 người do một sĩ quan Việt và hai cố vấn Mỹ đảm trách.

                Tên các toán trưởng đầu tiên là anh Phan văn Ninh, Lê kỳ Lân, Nguyễn bính Quan, Nguyễn văn Tùng và chồng tôi là Hồ đăng Nhựt.

                Đại úy Nguyễn văn Khách đã chỉ huy trại này được một thời gian, ông lại được lệnh thuyên chuyễn đi nơi khác. Sau đó thiếu tá Thơm và đại úy Xuân, anh em thường gọi là "Xuân Thẹo" dù trên khuôn mặt của đại úy Xuân không có vết xẹo nào ! có lẽ một cái tên đặc biệt anh em đã tặng cho.

                Đại uý Xuân từ bên sư đoàn Dù về, hai ông này là xử lý của trại Đằng Vân. Cho đến bây giờ, dù trải qua bao dâu bể vẫn không thể xoáy mòn tâm trí tôi, tôi vẫn còn nhớ cảnh một trận lụt lớn ngập cả thành phố, và cả trại Hoàng Diệu căn cứ của Mỹ cũng như trại Đằng Vân của LLĐB.


                EM HỎI ANH BAO GIỜ TRỞ LẠI

                Đến năm 1965, ở Vũng Tàu có một trận chiến rất lớn đó là trận Bình Giả. Lúc này các toán trưởng chuẩn bị theo các trực thăng để thi hành công tác xâm nhập, ngăn chận những nơi Cộng quân di chuyển, tôi chỉ biết có thế thôi. Làm sao tôi có thể vui được, có thể an lòng được trong tâm trạng nổi lòng chinh phụ dõi bóng chinh phu !

                Cứ mổi lần chàng chuẩn bị đi vào " miền gió cát ", nhảy vào giữa lòng đất địch là mổi lần tôi xót xa thầm hỏi: bao giờ chàng trở lại ? Ai có từng là vợ của chiến binh mới thông cảm nổi lo âu, niềm đau đợi chờụ, sự cô đơn từng phút của người vợ lính trong thời chiến chinh.

                Ôi, Đồng Xoài, Bình Giả... đất bằng sẽ phong ba, khói lửa ngút ngàn và chồng tôi sẽ đi vào chốn ấy. Tôi thắt thỏm, tôi héo hon theo từng bước anh đi, tôi đợi anh về mà lòng tơi bời vụn nát....sợ anh về trên đôi nạn gổ, tôi nghẹn ngào nghỉ đến ngày anh trở về "bên hòm gổ cài hoa..." chỉ nghỉ thế thôi mà nước mắt tôi lặng lẽ lăn dài.

                Tôi rời Nha Trang, tạm biệt chàng, tạm biệt những ngọn thùy dương rì rào những đêm tựa đầu nhau nghe sóng biển ngoài khơi, mang theo kỷ niệm những năm tháng bên chồng trở về gia đình tôi tại Sàigòn.






                Sài gòn không có biển, không có thùy dương cát trắng, tôi cảm thấy bồi hồi nôn nao nhớ, bâng khuâng và nuối tiếc những ngày nồng nàn phấn hương đã vội qua…. “ Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi ”, Sài gòn vẫn nhộn nhịp bao tà áo, từ quán cà phê Continental giọng hát trầm ấm, truyền cảm của Sĩ Phú vọng ra “nắng Sài gòn em đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”.

                Trời ơi, tôi còn tâm trí nào để chìm đắm trong những giòng âm thanh đó, tôi vội bước nhanh để xa rời tiếng hát như muốn rượt đuổi theo. Một sự tương phản đầy ray rứt như riễu cợt, cách vài mươi cây số đường chim, bay súng nổ đạn bay, thây người ngả qụy.

                Khuôn mặt diễm lệ Sài gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông mà đối với tôi, nó như những loại trang sức diêm dúa trên thân xác loang lổ đạn bom, trên hình hài còm cỏi của Mẹ Việt Nam !

                Tôi làm gì có áo lụa Hà Đông để mặc, nổi ước mơ đó đối với tôi là vô nghiã, tôi chỉ cần có chàng, tha thiết bên chàng mà thôi. Nhất định anh phải trở về và về nguyên vẹn hình hài nha anh, nha Hồ đăng Nhựt dấu yêu của em !

                Chồng tôi từ hậu cứ Nha Trang về Vũng Tàu để chuẩn bị hành quân, buổi chiều, nhận được tin của người anh gọi tôi ra để gặp chàng.

                Năm đó tôi mang thai đứa con đầu lòng được ba tháng, đến cổng trại vào lúc 6 giờ chiều tôi đã gặp thiếu tá Thơm, đại úy Mai việt Triết và đại úy Xuân đang đứng trước trại.[

                Tôi hỏi xin cho gặp chàng, các ông ấy nói :


                Thiếm đã đến trể mất rồi, Nhựt mới vừa từ giả chúng tôi bước ra bãi phi cơ trực thăng. Từ trong vô thức não nùng chợt ùa về loáng thoáng bên tai những vần thơ Cung Oán Chinh Phụ :

                “ Bóng chàng đỏ tợ ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in ”.

                Cũng một buổi chiều chiến chinh năm xưa, người chinh phụ tiễn đưa chinh phu lên đường ra trận mạc, con tuấn mã trắng phau như màu tuyết hí vang lừng, cất vó uy nghi nổi bậc bên giáp trận rực đỏ như màu ráng cuối trời quan tái.

                Tôi, hôm nay đơn lẽ, nước mắt đoanh tròng đứng nhìn theo từng chiếc trực thăng từ từ cất cánh, tiếng động cơ ầm đùng, gió bụi xoáy cả một vùng, tâm tư tôi rối bời như cỏ úa, loạn cuồng theo từng vòng quay cánh quạt, lòng quặn thắt từng cơn nhìn đàn chim sắt khuất dần về hướng đông bắc Bình Giả trong màu tím thẳm của sương khói hoàng hôn mờ nhân ảnh…!!!

                Bình Giả, một địa danh đang sôi sục lửa chiến tranh……thần chết đang đợi chờ, chốc nữa đây chàng sẽ hiện diện nơi đó !!! Trận đánh này có nhiều đơn vị bộ binh kể cả tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

                Cuộc giao tranh đã quyết liệt diễn ra, tiếng bom đạn vọng về….. Cộng quân tổn thất nặng nề, nhiều chiến sĩ quốc gia cũng đã hy sinh. Những toán hoạt động của chồng tôi đã bị lộ, nên anh đã băng rừng vượt suối mấy ngày đêm liên tục mới ra được núi Thị Vãi tại Bà Rịa. Chàng đã nguyên vẹn trở về, cám ơn thượng đế che chở cho chàng, chúng tôi bên nhau những ngày phép ngắn ngủi tại Sài gòn.





                Đến năm 1966 các anh toán trưởng cũng lần lượt mổi người một nơi, riêng chồng tôi vẫn ở lại đơn vị cũ.

                Lúc bấy giờ Chỉ Huy Trưởng trại Đằng Vân là Phan duy Tất, ông này về không bao lâu lại thành lập thêm mấy toán nữa. Tôi nhớ những toán trưởng rất trẻ là :

                Ngô văn Thơm, Tô Mười, Nguyễn ngọc Thiệp, Trần anh Tuấn, Nguyễn văn Biên,v.v… các toán trưởng lần lượt thay phiên nhau đi hết cuộc hành quân này đến cuộc hành quân khác.

                Các địa danh đẫm máu như Phú Bài, Bồng Sơn, Chu Lai, Khe Sanh, Huế, Điện Biên Phủ…. cường độ chiến tranh leo thang, tiếp theo là Pleimer, trận chiến này các đội và trưởng toán đã hy sinh rất nhiều..

                Trong lần tử thương này, tôi chỉ nhớ có 2 người bạn của chồng tôi là đại úy Nghi và Nguyễn văn Bảy, anh em thường gọi là “ Bảy Lùn ”.

                Trong cảnh đạn lửa trùng điệp, nhiều phi công trực thăng của không lực VNCH, khi thấy đồng đội bên dưới bị nguy khốn đã bất chấp mạng sống, liều thân trong các phi vụ đổ quân và tiếp tế lương thực.

                Nhiều chiếc đã bị bắn rơi tan tành, lửa bốc cháy ngút trời. Lúc đó có trung úy phi công trực thăng Nguyễn văn Vui, liều một phen sinh tử đem mạch sống cho đồng đội bằng những thùng lương thực.

                Từ trên cao trung úy Vui bổng thình lình “ cúp ” máy cho phi cơ rơi xuống như khối sắt và quay 180 độ, gần đến mặt đất cho trực thăng nổ máy lại, thán phục thay người phi công dũng cảm của QLVNCH.






                Đầu năm 1967, tôi lại mang thêm đứa thứ hai mới sanh gần một tháng, vợ của anh Nguyễn Ngọc Thiệp cùng sanh một lượt, cô này là em chồng của tôi.

                Lúc này chồng tôi đang hành quân tại Vùng Hai Chiến Thuật sắp về, tôi được tin từ Sài gòn và ra hậu cứ đón chồng, thường khi mỗi lần xong công tác là anh được đi phép. Trong lúc chờ phi cơ trở về Sàigòn, anh Nguyễn ngọc Thiệp bị tử nạn do thùng tiếp tế lương thực từ trực thăng Mỹ rớt xuống, cái chết của anh Thiệp rất thảm thương.

                Ôi, chinh chiến! bất hạnh từng ngày đến với dân tộc Việt Nam, đứa con của anh Thiệp mới chào đời còn đỏ hỏn đã vĩnh viễn không thấy mặt cha và vành khăn sô oan nghiệt vội quấn trên đầu người vợ trẻ.

                Hôm sau chồng tôi đưa xác Thiệp -người em rể trở về Sàigòn an táng. Những ngày phép qua mau trong sự buồn bả, mất mát của người thân. Anh trở lại đơn vị, tôi lại theo chàng về Nha Trang sau 3 tháng sanh nở.





                Năm Mậu Thân 1968, tôi trở về Sài gòn và đứa con thứ ba đã chào đời. Việt Cộng đột nhập và tấn công thành phố Sài gòn, khắp các tỉnh lỵ đều nổ súng.

                Trong trận Mậu Thân chồng tôi lại mất thêm một đồng đội, trung úy Nguyễn văn Tùng đã tử trận tại Tòa Tỉnh Trưởng Nha Trang lúc hai bên kịch chiến.

                Nữa năm sau ông Phạm duy Tất đã thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật, chồng tôi đã phục vụ trong LLĐB từ năm 1962 đến năm 1968. Lúc này anh được lệnh thuyên chuyển về Vùng 3 Chiến Thuật nhận chức vụ Trung Tâm Hành Quân của C.3 tại Biên Hòa.

                Sau đó ông Chỉ Huy Trưởng là trung tá Phạm duy Tất đưa anh nhận chức làm trưởng trại Chí Linh ở Sông Bé, được một thời gian anh đi qua trại Tống Lê Chân ở Bình Long và Lộc Ninh.

                Đến năm 1969 anh coi trại Tống Lê Chân, sau cùng anh về B.3 hành quân ở B.15 cho đến năm 1972.

                Năm 1972, [/size]khởi đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, đỉnh tận cùng của điêu linh, thẳm sâu của tang tóc, đẩy người dân xuống cuối đáy địa ngục.

                Chiến trường trở nên khốc liệt hơn, kinh khủng hơn, tàn bạo hơn….bom đạn cày nát mãnh đất quê hương nghèo khó. Mẹ Việt Nam mở trừng mắt máu lệ đầm đià, hơi thở Mẹ Việt Nam đứt quảng từng hồi, thân thể Mẹ Việt Nam run rẩy từng cơn, tan hoang như địa chấn, sụp đổ như cơn đại hồng thủy….

                Trước bờ vực thẳm tử sinh, người dân miền Nam từng bước gập ghềnh, chênh vênh trên chiếc cầu định mệnh. Máu và nước mắt, thây người và khăn sô…!!!

                Đến cuối 1972 LLĐB được lệnh giải tán để bổ xung qua các lực lượng bạn như :

                Biệt Động Quân Biên Phòng, Nha Kỷ Thuật và các quân binh chủng khác.

                Anh đã chọn về Sở Liên Lạc Nha Kỷ Thuật Bộ Tổng Tham Mưu và làm việc tại đó cho đến cuối năm 1974.





                Còn tiếp ,

                Comment


                • Font Size
                  #9

                  ÁO BÀO THAY CHIẾU ANH VỀ ĐẤT


                  Đầu năm 1975, anh được lệnh đi nắm Bộ Chỉ Huy nhẹ ở Chiến Đoàn 2 tại Ban Mê Thuột và Kontum. Lúc này tình hình chiến sự trở nên căn thẳng, hỗn loạn, phương tiện di chuyển vô cùng khan hiếm và khó khăn.

                  Hai ngày ròng rã chờ đợi tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng vẫn không có phi cơ, anh đành lên phi trường Biên Hòa và đã được lên đường sau đó.

                  Khi đến trình diện tại Chiến Đoàn 2, mỗi sĩ quan phải thay phiên nhau hành quân 10 ngày.

                  Đến ngày 20 tháng 3 năm 1975, thiếu tá Cao triều Phát đã đem lương lên căn cứ hành quân để phát cho anh em. Ông thiếu tá Phát bảo chồng tôi :

                  " Mầy" đã xong công tác rồi, có đi theo chuyến bay này về không ? Anh không muốn xa đồng đội trong lúc này, nhất là lúc tình hình đang rối ren vì được lệnh sắp rút quân để di tản chiến thuật, hơn nữa các bạn anh đề nghị thôi chúng mình sẽ về chung cho vui.

                  Vì vậy, anh đã nhờ thiếu tá Phát mang tiền lương về cho tôi, anh chỉ giữ lại 500 đồng để tiêu xài và nhắn vài hôm sau anh sẽ về Sài gòn.

                  Trên đường rút quân "triệt thoái cao nguyên", dọc theo quốc lộ sự di chuyển rất hổn tạp. Anh được lệnh thượng cấp dẫn quân đi tiên phong để mở đường, bảo vệ và đưa dân chúng về đồng bằng tránh khỏi nạn đau binh và cướp bốc.[siz=4]

                  Sáng ngày 25 tháng 3, [/size]
                  anh điện về gặp tôi và báo ngày mai sẽ gặp mẹ con tôi tại Sài gòn, chỉ còn 24 giờ ngắn ngũi, tôi chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn niềm vui cho cuộc tương phùn.

                  Chiều cùng ngày trên đường rút quân, anh cùng thiếu tá Hải và vài sĩ quan nữa trên xe, một trái đạn B.40 từ phiá Cộng quân mai phục bắn trúng ngay người tài xế cháy không còn xác, thiếu tá Hải văng ra khỏi xe bị cháy đen, riêng chồng tôi bị dập nát mặt nhìn không ra. Trong xe chết 3 người, còn lại 3 người đều bị thương không nguy hiểm đến tánh mạng.

                  Như thường lệ mổi sáng, từ khu cư xá gia binh của trại Nguyễn cao Vĩ trên chiếc Honda ra cổng đưa con đi đến trường, tôi đã thấy trung úy Thọ và thượng sĩ Sanh, hai người này chận tôi lại, đôi mắt ái ngại và ngập ngừng cho tôi biết hung tin :

                  Xin chị bình tỉnh, tin chính xác báo cho biết đại úy Hồ đăng Nhựt đã tử thương trên đường rút quân chiều hôm qua. Tôi như bị sét đánh, tim tôi như ngưng đập, trước mặt tôi cảnh vật bổng tối sầm và đảo lộn, tai tôi ù lên những tiếng kêu quái dị, mặt đất bổng nhiên nhấp nhô dậy sóng. Tôi rụng rời, tôi chao đão, tôi ngả qụy chiếc xe Honda với đứa con tôi cũng đổ theo. Các anh em mang tôi vào bệnh xá, sau khi hồi phục tôi làm thủ tục đi nhận lãnh xác chồng.

                  " Ngày mai đi nhận xác chồng, ngày mai đi nhận xác anh, cuồng si thuở ấy hiển linh bây giờ ".








                  Trời ơi, Hồ đăng Nhựt ơi ! Anh đã bỏ mẹ con em, anh đã bỏ lại bạn bè và đồng đội trong lúc đất nước đang hồi nghiệt ngã. Tôi cùng các anh em đi đến Nghiã Trang Quân Đội tại Biên Hòa, được một chú lính đưa tôi đi qua dãy hộc tủ chứa đựng tử thi và cuối cùng chúng tôi dừng lại.

                  Dừng lại để chấp nhận một sự bẽ bàng, dừng lại để gói trọn một vụn vỡ đến tê dại toàn thân, nhận một kiếp đời góa phụ. Chiếc hộc tủ gói gọn hình hài của thiếu tá Hải và thân xác chồng tôi đang nằm bất động.

                  Trời ơi ! "em không nhìn được xác chàng, anh lên lon giữa đôi hàng nến chong", thi hài chồng tôi nằm trên chiếc băng ca, khuôn mặt đã bể nát, tôi chỉ nhận diện chàng qua tấm thẻ bài.

                  Tấm thẻ bài này nó đã từng theo chàng qua những đoạn đường máu lửa, nó đã từng ấp ủ nhớ thương về người vợ bé nhỏ và đàn con dại mổi khi dừng bước quân hành giữa lưng đồi của rừng khuya tịch mịch, cuối rặn sim bạt ngàn.

                  Bây giờ "áo bào đã thay chiếu anh về đất" yêu đương kia đã cùng anh chấp cánh bay tới một vùng trời miên viễn...!!!






                  Còn tiếp,

                  Comment


                  • Font Size
                    #10

                    ĐÁ NÁT VÀNG TAN



                    Vài hôm sau thành phố rất lộn xộn, trong cư xá đạn bay xối xã, lúc đó tôi nhờ em tôi đưa 5 đứa con về nhà trước phần tôi thu xếp về sau.

                    Chỉ có một đêm đường xá bị giới nghiêm và thiết quân lực, tôi nóng ruột không biết các con tôi như thế nào. Một tháng nặng nề ngột ngạt đè nặng trên đầu người dân Sài gòn……

                    Đến trưa ngày 30 tháng 4, các anh em quân nhân vượt qua cổng trại cư xá Nguyễn cao Vĩ….tôi ngơ ngác nhìn và chạy theo. Sài gòn súng nổ, Sài gòn đạn lạc tên bay, tiếng pháo Cộng quân ầm đùm, tiếng xích sắt thô bạo nghiền nát mặt đường, giờ phút hấp hối của Sàigòn, cơn đá nát vàng tan đã đến. Quyết một phen trống mái ngăn chận Cộng quân xâm nhập thủ đô, trên bầu trời những chiếc phi cơ đang vầng vũ đánh bom bảo vệ vòng đai Sàigòn, một chiếc bốc cháy chói lòa như hành tinh lạc thể rồi nổ tung tóe, tan tành từng mảnh rơi lả chã, một chiếc khác gẫy cánh quay như con vụ rồi chúi đầu, sau tiếng nổ từng cụm khói đen nghịch bốc lên cao. Sài gòn bốc cháy, Sài gòn loạn lạc,

                    Sài gòn tiếng kêu la thất đảm. Kẻm gai như mạng nhện bủa giăng, nhiều anh em quân nhân súng lăm lăm trong tay bám chặt chốt.

                    Tôi thấy những người Lính Mũ Đỏ đang đau thương rũ cánh “Thiên Thần”, giày sô “shaute” còn bám chặt gót chân gió bụi mà áo trận lạc mất nơi nào ? chỉ còn tấm thân trần với những xâu lựu đạn để bảo vệ thành đô, hai tay cầm hai trái phá đang chạy tới, chạy lui.

                    Tôi như một cái xác phờ phạt, hồn đã thất lạc tự bao giờ. Tôi chạy về hướng ngã tư Bảy Hiền định ghé vào nhà người chị, nhưng căn nhà bị đổ nát tan hoang vì đạn pháo của địch quân, không biết họ đã tan thây trong đóng gạch vụn đó hay chạy phương nào ?

                    Tôi lại trở ra đường Nguyễn văn Thoại , vừa đi vừa chạy về nhà trên đường Lý Thái Tổ, năm đứa con tôi vẫn còn đang chờ. Mẹ con chúng tôi ôm nhau òa khóc.

                    Chiều 30/4 người người bỏ chạy tìm tự do, người người thất lạc. Hoàn cảnh và cuộc sống chật vật của một người vợ chiến binh, hơn nữa chàng vừa nằm xuống từ giả cuộc chiến bi hùng này, mồ chưa khô đất và cỏ khâu chưa lên mầm. Tang chồng vẫn nặng trỉu trên đầu tôi với cái tuổi vừa 30, lại chất thêm một cái tang cho đất nước.

                    Hai vai gầy gánh vác đau thương trong cảnh mẹ góa, con côi, đứa con lớn nhất chỉ có tám tuổi và đứa nhỏ nhất mới được 18 tháng, tôi biết làm gì đây trong thảm trạng này, trong cảnh thê lương của “Sài gòn hoang lạnh ơ thờ, môi người goá phụ nhạt mờ màu son….” Nhựt ơi, em phải làm gì đây anh, em phải làm gì và mẹ con em phải sống làm sao trong những ngày tháng đến ???

                    Cuộc đời sao lắm nổi chuân truyên, sao quá đổi đoạn trường đối với người vợ Lính ?!

                    Tôi lại phải tiếp tục sống và phải sống dưới một lớp người mới, một thể chế mới mà đối tượng là giai cấp, là độc tài, là hà khắc dã man. Tôi trong tâm trạng như hóa đá, qua câu chuyện nàng Tô Thị bồng con lên tận đỉnh núi từng chiều dõi bóng chinh nhân. Nhưng nàng Tô Thị dù sao vẫn còn nhiều hạnh phúc hơn tôi, tôi là đối tượng của một giai cấp thống trị mới của bọn vô thần, tôi là vợ của một sĩ quan chế độ cũ, vợ của một “ngụy quân”, họ đã lên án tôi như thế.

                    Chồng tôi đã gục ngả trên đường rút quân, tôi đã lịm chết bao lần trước cổ quan tài, lòng huyệt lạnh đã cách ngăn chúng đôi miền: dương-cảnh. Tôi còn gì để mà ngóng trông như nàng Tô Thị, có còn chăng chỉ là 5 đứa con thơ dại, tôi phải tảo tần buôn gánh, bán bưng để sống qua ngày hai buổi cháo rau…!


                    ĐỜI NGƯỜI NHƯ CHIẾC LÁ


                    Con nước xoáy trăm giòng rồi cũng về biển khơi, con người trong cảnh đời quay quắt, ngược xuôi rồi tới lúc cũng dừng lại. Tôi được giấy bảo lãnh từ Hoa Kỳ của em tôi và được phái đoàn phỏng vấn. Trải qua bao khó khăn về tài chánh, về mọi mặt….nào có bình thường và dễ dàng như bao gia đình khác ? cuối cùng chúng tôi được lên đường.

                    Hành trang mang theo một gia tài hom hem nghèo khó, cùng 5 đứa con đã trưởng thành. Phi cơ cất cánh, tưởng rằng tuyến nước mắt tôi đã khô cạn trong đời sống khổ nạn, tự dưng nó lăn dài trên đôi má hóp sạm đen mưa nắng, trên khuôn mặt hóc hác tiều tụy; trong những giọt lệ đó đã hòa lẫn những vui buồn, tôi thoát khỏi địa ngục trần gian, từ biệt “thiên đàng” Cộng Sản.

                    Trạm dừng chân đầu tiên tại Thái, chuyến đi lưu lại 10 ngày tại đó, rồi Tokyo, San Francisco, và chúng tôi đã đến Kansas city đoàn tụ với người em gái thứ 5 nơi thành phố này.

                    Vượt qua những khó khăn trên xứ người lúc đầu tiên, nhân tình thế sự biến đổi theo hoàn cảnh đó là chuyện thường hằng trong bất cứ một đời sống nào. Tôi xuôi Nam về miền Cali nắng ấm tại quận Cam, tôi đã quen với đời sống mới, gặp lại những đồng đội của chồng tôi năm xưa.

                    Trong một tình cờ giữa tiệc cưới con của người bạn cũ, tôi gặp được đại tá Ngô Thế Linh do các anh em giới thiệu… Sau đó tôi quyết định về San Jose vào tháng hai và nghe tin đại tá Ngô Thế Linh đã từ trần.

                    Đến tháng 3 bên Sở Liên Lạc các anh đã tổ chức ngày giổ của chồng tôi rất trọng đại, niềm an ủi to lớn sau bao năm tháng nhục nhằn. Nước mất nhà tan, trong cảnh đời tha phương lạ cảnh, lạ người nhưng tình đồng đội vẫn còn gắn bó, cao qúy thay cho cái tình huynh đệ chi binh.

                    Những chiều ở đây mổi độ tháng tư về, tôi nhớ quê, nhớ nhà và nhớ bao chiến sĩ đã nằm xuống cho quê hương, trong đó có Hồ đăng Nhựt -chồng của tôi, anh đã làm xong bổn phận của người trai thời loạn.

                    Giờ đây niềm đau bại trận luôn đeo đẳng theo các anh -những người Lính sau cuộc xảy nghé tan đàn, các anh bị bức tử một cách bi phẫn trong một cuộc chiến đấu oai hùng.

                    Các anh đang trôi dạt trên xứ người, cuộc chiến đó còn dỡ dang và đang tiếp diễn trên một chính trường không phải bằng súng gươm, mà bằng lập trường, bằng khối óc, bằng Lý Tưởng QUỐC GIA và DÂN TỘC. Máu các anh đã tô thắm cho màu cờ, nhưng đất nước vẫn nằm trong loài qủy đỏ, tôi luôn hỵ vọng và tin tưởng vào các anh, những người chiến sĩ can trường của QLVNCH.



                    CỔ LAI CHINH CHIẾN KỶ NHÂN HỒI



                    Một chút niềm riêng về Nha Trang dấu yêu ngày tháng cũ. Nha Trang những ngày mưa đổ điù hiu se sắc buồn.

                    Nhớ những ngày đơn độc trong trại gia binh, nhớ Duy Tân con đường dọc theo bờ biển đèn ngoài khơi nhấp nháy như ngàn sao, phố đêm Nha Trang trông huyền ảo lấm tấm như ngàn trân châu trải đều trên nét xiêm hài nhung thẳm của giai nhân.

                    Tất cả chìm sâu vào đáy dĩ vãng rong rêu, mổi lần hồi tưởng lòng tôi lại rạt rào thương tủi, lòng tôi lại trào dâng bao kỷ niệm. “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” hình bóng chinh nhân khi ẩn, khi hiện, nổi trôi theo từng dòng chữ, từng âm thanh đứt lià “vẵng nghe tự đáy hồn thương tích, bao tiếng kèn truy điệu năm xưa.”

                    Bây giờ là THÁNG BA. Bây giờ đã từ bao độ mất chàng, mất quê hương.

                    Vâng bây giờ là tháng 3, đã 36 năm dài, mùa Quốc Nạn, mùa đau thương phủ trùm trên “Quê Hương Nghìn Trùng Tang Trắng”. Trong một góc sâu thẳm của lòng tôi, hình ảnh cố thiếu tá Hồ đăng Nhựt, người chồng thân yêu đã anh dũng ĐỀN XONG NỢ NƯỚC.

                    San Jose, Mùa Quốc Nạn.

                    Lưu Trùng Duơng


                    Comment


                    • Font Size
                      #11

                      NHẠC VÀNG


                      Tôi không phải là một nhà nghiên cứu, nên tôi không biết cái tên Nhạc Vàng có từ thời Chế Độ Việt Nam Cộng Hoà, hay có từ ngày Miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay Chế Độ Cộng Sản. Tôi chỉ biết :

                      Sau ngày 30-04-1975, Chế Độ Cộng Sản liệt kê Nhạc Vàng là một loại tàn tích của Mỹ-Nguỵ để lại.

                      Nhạc Vàng là một thứ văn hoá đồi truỵ, cần phải loại trừ.

                      Sau ngày 30-04-1975, tất cả những bản nhạc thời Việt Nam Cộng Hòa đều bị cấm tuyệt đối, bất cứ ai nghe và mở máy phát lên những bản nhạc này, đều là kẻ phản động.

                      Đài BBC cũng chung một số phận. Những ai bị Công an, Du kích, mấy ông 30 mà vớ được khi đang nghe loại nhạc phản động này, sẽ bị tịch thu máy, băng và bị mời ra xã làm kiểm điểm và nếu cãi hay chống lại là bị còng tay ngay lập tức.

                      Sau ngày mất Miền Nam, những bản Nhạc Đỏ được lên ngôi :

                      Như Có Bác Trong Ngày Đại Thắng, Cô Gái Vót Chông, Lá Đỏ, Cảm Tử Quân...






                      Nhà tôi, sau Ngày Miền Nam bị mất, còn một chiếc máy AKAI M10 và vài chục cuốn băng. Lâu lâu chị em mở ra nghe vụng trộm trong buồng, sau khi đã khoá kín các cửa.

                      Noel 1977, chính xác là ngày 22-12, khoảng 9g tối, thằng em dắt bốn đứa bạn trai về nhà chơi.

                      Sau khi đã đóng cửa, nó mang chiếc máy AKAI ra mở cuốn băng"Rừng Lá Thấp". Nó mở hơi lớn, cả tôi cũng ngồi nghe. Đang nghe thì bất chợt có tiếng gõ cửa :

                      - "Cộc, cộc" và có tiếng quát :

                      - " Mở cửa ra mau ". Tiếng súng lên đạn nghe rất sợ. Thằng em mới 20 tuổi, nó khoẻ thật ! Nó vội vàng tắt máy, rút điện, ôm chiếc máy, chạy biến ra đàng sau.

                      Bên ngoài, tiếng quát tháo ngày càng to. Tôi ra mở cửa, năm tay Du kích súng ống đầy đủ và một tay Công an bước vào. Câu đầu tiên, tay Công an quát lên :

                      " Nhà này phản động, mở nhạc vàng, thứ văn hoá đồi truỵ, tàn tích do Mỹ-Nguỵ để lại. Đề nghị các anh em Du kích khám xét nhà".

                      Năm tay Du kích lao vào mọi xó xỉnh trong nhà để lục soát. Mấy tay này lục soát kỹ thật ! Gần một tiếng đồng hồ, 5 tay Du kích đi ra, một tay nói :

                      - " Báo cáo, không thấy gì hết ". Tay Công an lại quát lên :

                      -" Ra ngoài vườn sau ".

                      Lục soát mãi không thấy gì, cả bọn đi vào nhà. Tay Công an nói với tôi :

                      Tôi nghe thấy tiếng nhạc đồi truỵ phát ra từ trong nhà chị, máy và băng chị dấu ở đâu "? Tôi chỉ trả lời :

                      - " Nhà tôi làm gì có máy "

                      - Tôi nghe rõ ràng có tiếng hát

                      - Nếu có máy thì các anh đã tìm thấy 🤣

                      Tay Công an làm biên bản đại ý là đi ngang qua nhà tôi, nghe thấy tiếng nhạc vàng phát ta từ nhà tôi và có 4 thanh niên tập trung, nhưng vào kiểm tra thì không có gì và bắt tôi ký vào biên bản. Chữ viết của tay Công an này như gà bới, nguệch ngòa nguệch ngoạc. Tôi ký vào biên bản và họ ra về...

                      Sau khi họ về hết, tôi ra đàng sau :

                      "Cường ơi". Nó chui từ cái hố ở gầm chuồng gà lên và kéo theo chiếc máy AKAI. Đầu nó dính đầy mạng nhện 🤣. Cái hố sâu nằm ở sát tường, cái chuồng gà cũ nhô ra ngoài rất nhiều, cho nên bọn chính quyền không nhìn thấy.

                      Mấy chục cuốn băng thì tôi đã đem đi gởi hàng xóm, mỗi nhà vài cuốn. "kiến lửa nó chích em cục hết cả chân lên rồi đây này"🤣, đứa em kêu lên...

                      Sau lần đó, khi nào muốn nghe nhạc, chị em phải mang cái máy xuống dưới bếp và mở thật nhỏ...

                      Chiếc máy AKAI bây giờ đã là đồ cổ rồi, nhưng tôi vẫn còn giữ và lâu lâu lại mở cuốn băng Rừng Lá Thấp ra nghe để nhớ về một kỷ niệm ngày xưa...
                      Noel 2019 cũng gần kề.

                      Tối ngày 22-12-2019, tôi lại mở máy nghe để nhớ lại Noel 1977








                      Sưu tầm

                      Comment


                      • Font Size
                        #12
                        mấy chú bộ đội vô miền nam sắm cho mỗi chú đuợc cái đồ lọc cà phê đuợc hai lỵ .. dùng tả đàn bà làm khẩu trang .. lấy toilet bolw làm chậu rữa mặt .. hay thả cá vô đó .. ra chợ mua quần bò, đồng hồ không nguời lái hai cữa sỗ .. hahaha

                        Comment


                        • Font Size
                          #13
                          Originally posted by tctd View Post
                          mấy chú bộ đội vô miền nam sắm cho mỗi chú đuợc cái đồ lọc cà phê đuợc hai lỵ .. dùng tả đàn bà làm khẩu trang .. lấy toilet bolw làm chậu rữa mặt .. hay thả cá vô đó .. ra chợ mua quần bò, đồng hồ không nguời lái hai cữa sỗ .. hahaha


                          hahaha..

                          Comment


                          • Font Size
                            #14
                            Originally posted by Lưu Việt View Post

                            hahaha..
                            boác hù còn bị tụi nó phơi khô để dành nữa huống chi là kem .. hahaha

                            Comment


                            • Font Size
                              #15

                              CHIẾN THẮNG THẦN THÁNH LÀ CÁI CON C... GÌ ?...







                              Trong một buổi sinh hoạt đặc biệt của trại tù cải tạo, để kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, một Đ/Tá Việt Cộng tên Cao Nham đến trại để nói chuyện với các trại viên về chiến thắng này.

                              Tên Nham nói vung cán cuốc, nước miếng văng tùm lum, ba hoa về cái mà chúng gọi là chiến thắng ĐBP.

                              Nham vung tay la hét:

                              - Chiến thắng Điện Biên Phủ là một
                              chiến thắng thần thánh.

                              - Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng to lớn của đảng cộng sản Việt Nam,

                              - Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp.

                              Trong khi hoa chân múa tay, y để ý thấy Tr/Tướng Dương Văn Đức có cuốn sổ tay, lúi húi ghi chép những lời nói của y, nên y càng sung sướng, nghĩ bụng :

                              “ Tên Tướng này ... nó phục tài ăn nói của mình nên mới ghi chép kỹ lưỡng như vậy ”

                              Khi nói xong, y trịnh trọng hỏi các anh em tù cải tạo :

                              - “ Các anh ngồi hàng đầu, chắc là cấp bậc “Tướng”, phải không ?

                              Khi được xác nhận như vậy, hắn chỉ tay vào Tướng Đức :

                              - “ Tôi thấy có anh gì đây này, học tập tốt lắm, ghi chép cẩn thận . Có vậy mới được chóng về với gia đình chứ !

                              - " Anh tên là gì nhỉ "?

                              - Tướng Đức vẫn ngồi, trả lời lên:

                              - “ Tôi tên Đức”

                              Tên Nham hăng hái :

                              - “ Anh đã ghi được những gì trong bài nói chuyện của tô i? Anh có thể đọc cho tất cả hội trường cùng nghe được không ?”

                              - “ Ấy, không được đâu ! Tôi chỉ ghi cho một mình tôi thôi, không ai được biết đâu !”

                              Nham nghĩ :

                              Tướng Đức còn khiêm nhường, nên thúc dục :

                              - “ Anh cứ việc đọc cho mọi người cùng nghe đi"

                              - “ Tôi đã nói tôi viết thì chỉ có một mình tôi hiểu thôi ! Tôi sợ đọc lên, mỗi người lại một ý kiến, phiền lắm ! Thôi, cán bộ cho tôi miễn đi ! "

                              Tên Nham đang ở lúc cao hứng, đâu dễ gì buông tha :

                              - “ Thôi, nếu anh không muốn đọc, cứ đưa đây cho tôi vậy ! Tôi sẽ xem qua và đọc lại cho mọi người nghe để cùng hiểu cho rõ !...

                              Một tên quản giáo vội vàng chạy lại nhận cuốn sổ tay của Tướng Đức, khúm núm đưa lên cho tên Nham.

                              Tên này hớn hở tiếp lấy , sửa soạn đọc những lời vàng ngọc của y mà Tướng Đức đã ghi ....

                              Tay y run lên, nước miếng từ trong miệng chẩy ra nhễu nhão ! Mặt y đanh lại, cặp mắt quắc lên căm hờn ! Y thở không ra hơi, nói không ra tiếng !

                              Cả hội trường nín thở theo y !

                              Một lúc sau, tên Nham mới bật ra được vài tiếng lắp bắp :

                              - “ Bắt .. Bắt.. lấy tên phản động này !

                              - Nó . . . Nó . . . dám hỗn láo với cách mạng ! Nó dám chửi đảng cộng sản ! Bắt nó ngay lập tức cho tôi !”

                              Những tên vệ binh đứng gác chung quanh vội vàng chạy lại chỗ Tướng Đức, chĩa súng vào ông, lên đạn rốp rốp, làm như chúng bắn ông ngay lập tức.

                              Tướng Đức vẫn ngồi yên, bình tĩnh trả lời tên Nham :

                              - " Tôi đã nói trước cho cán bộ rồi, tôi viết thì chỉ mình tôi đọc thôi, ai muốn đọc thì nấy ráng chịu !

                              Cán bộ cứ muốn đọc thì tôi đưa ! Sao cán bộ còn bắt lỗi tôi làm chi ”?


                              Tên Nham lại một lần nữa phùng mang trợn mắt, lắp bắp nói chẳng nên lời ! Mặt mày y tím bầm lại, mắt trợn trắng lên nhìn Tướng Đức, như muốn ăn tươi nuốt sống ông ta vậy.

                              Tr/Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, với tư cách là Trưởng phòng tù cải tạo, vội vã đứng lên xin cho Tướng Đức :

                              - “ Xin cán bộ bỏ qua cho, không nên chấp nhất những ghi chú của anh Đức làm gì, anh ấy bị . . . MÁT đấy mà, trong trại ai cũng biết cả !”

                              Tên Nham gằn giọng hỏi lại :

                              - “ Mát là cái gì ?”

                              - “ Mát tức là . . . điên, là khùng đó mà! Hồi xưa, anh Đức đã chứi cả Tổng Thống Thiệu nữa đó ! Ông Thiệu cũng đã giận dữ đòi bỏ tù anh Đức . Nhưng khi biết anh ta bị khùng, nên lại tha "

                              Thế là cả trại nhao nhao lên, ai cũng nói :

                              - “ Anh Đức . . . Mát đấy mà, cán bộ chấp làm chi !”

                              Tên Nham thấy cả trại đồng lên tiếng, cho rằng Tướng Đức khùng, không lẽ y còn chấp nhất, một người khùng dù có chửi đảng cộng sản, cũng không có gì đáng nói . Nếu cho Tướng Đức là tỉnh, lời ông ta chửi sẽ bay đi khắp các trại tù khác, còn nguy hiểm gấp mấy !

                              Suy tính một hồi, hắn dịu giọng :

                              “ Thôi, nếu các anh nói anh Đức này khùng điên, thì tôi cũng chẳng chấp nhất làm gì ! Các anh đem anh ta về trại, trị bệnh cho anh ta chóng khỏi, để mà học tập cho tốt !”

                              Rồi y chậm rãi xé nhó cuốn sổ tay của Tướng Đức đi.

                              ...


                              Mấy hôm sau, nhân một dịp đi làm lao động, vào lúc nghỉ trưa, anh em đã tụ họp chung quanh Tướng Đức để hỏi ông đã viết gì trong cuốn sổ tay, mà làm cho tên Nham tức giận tột cùng như vậy ?

                              Tướng Đức chậm rãi trả lời :

                              - Mấy em có nhớ cái thằng VC đó nói gì không ?

                              Nó nói :

                              - “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh”, qua móc sổ ra ghi :


                              - “CON CẶC !”

                              Rồi đóng sổ lại.

                              Tới khi nó nói tiếp :

                              - Chiến thắng ĐBP là một chiến thắng vĩ đại của đảng Cộng Sản VN "
                              qua lại móc sổ ra ghi :]


                              -CON CẶC "


                              Rồi qua lại xếp sổ lại.

                              Rổi nó lại nói :


                              - “ Chiến thắng ĐBP đã đánh nhào Đế quốc Pháp”, qua lại móc sổ ra ghi :

                              - “CON CẶC !”

                              Rồi qua lại đóng sổ lại.

                              Tất cả anh em có măt lúc đó đều cười nghiêng cười ngửa vì những ghi chú mà Tướng Đức đã ghi trong sổ tay của ông.

                              Nguyễn Khắp Nơi (Qua lời kể của Lê Phước Khánh, K13 Thủ Đức)

                              Comment

                              Working...
                              X