Announcement

Collapse
No announcement yet.

Lời mời gọi cùng viết về “Ký ức 30 tháng 4”

Collapse
This is a sticky topic.
X
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #31

    LỜI CẢM TẠ !



    Nhân ngày 30.4 kỷ niệm tròn 46 năm gia đình tuôi được hooooàng toooàng giải phóng.

    Thay mặt vợ, con, dâu, rễ, cháu, chắt, chút, chít tuôi xin gởi lời cảm ơn đến chính phủ các nước đã đưa quân đội, vũ khí, xe tăng, trọng pháo, chuyên gia....qua miền bắc ủng hộ tấn công miền nam.









    NẾU :

    - Không có : 320.000 quân T.Q tiếp sức cho miền bắc,



    Click image for larger version

Name:	LinhTauThamChienVietNam.jpg
Views:	123
Size:	98.6 KB
ID:	41798


    - Không có lực lượng đặc nhiệm của quân đội Liên Xô tham chiến ở chiến trường VN



    Click image for larger version

Name:	179788789_3673931162717503_5103898423238443745_n.jpg
Views:	114
Size:	44.4 KB
ID:	41799



    - Không có sĩ quan binh sĩ Triều Tiên và lãnh tụ Cu Ba tận lực tham mưu trợ chiến ở những trận địa ác liệt...., thì miền nam đâu dễ gì được giải phóng khỏi tự do như ngày nay. Phải không ạ ?






    Nhờ có quý quốc đem quân qua đánh đuổi bọn Mỹ, ngụy xâm lược, nên hôm nay gia đình, họ hàng tuôi mới có dịp nô nức ăn mừng chiến thắng.

    Cảm ơn quý quốc vô cùng !










    Sưu tầm

    Comment


    • Font Size
      #32

      CHUYỆN TÙ
      CẢI TẠO CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH - TRẦN ĐỖ CUNG


      “…Phí phạm “ chất xám ” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được .



      Click image for larger version

Name:	35900044905_a08e9e3cd1.jpg
Views:	126
Size:	41.3 KB
ID:	42070


      Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ.

      Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả.

      Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực.
      [b][size=4][color=black][i]
      Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

      Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học.

      Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công.

      Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp
      ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955.

      Ông đã giữ chức
      Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975.

      Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980.

      Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.



      Click image for larger version

Name:	kienthuc-anh-mau-vn-1988-03.jpg
Views:	128
Size:	44.6 KB
ID:	42071



      Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh.

      Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris.

      Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không ?

      Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín.

      Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua.

      Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt.

      Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

      Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc mà còn mất cả cá tính nữa.






      Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới.

      Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường.

      Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu . Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

      Bà nói :


      “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu” ?
      Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

      Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông thật thà nghĩ rằng :

      Vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng :

      “ Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”.

      Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều.

      “Chúng tôi
      không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

      Chúng tôi
      đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.


      Click image for larger version

Name:	OlfA2o.jpg
Views:	122
Size:	27.8 KB
ID:	42072



      Ngày 15 tháng Sáu năm 1975
      bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn.

      “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo dài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được.

      Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

      Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện.
      Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp.

      Những cán bộ miền Nam thấy bất bình :


      “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ ”?







      Bà nói:


      “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp.

      Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

      Còn tiếp ,

      Comment


      • Font Size
        #33
        Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn.

        Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà.

        Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước.

        - “ Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi ?"

        Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi ?

        Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

        Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà.

        Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh.

        Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình.

        Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn.

        Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác.

        Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

        Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu.

        Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp.

        Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau.

        Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình.

        Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ.

        Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính.

        Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

        Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất.

        Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

        Anh nói :

        “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt” !

        Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

        Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực.

        “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”!

        Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa.

        Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

        Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC.

        Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân.

        Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau.

        Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ.

        Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy.

        Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại.

        Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.



        Click image for larger version  Name:	81TcDZ.jpg Views:	16 Size:	48.2 KB ID:	42164



        Có lệnh cho đi thăm tù.

        Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm.

        Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại ?

        Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đầu bàn lắng nghe.

        Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ.

        Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm.

        Khi hết giờ thăm, tù đứng dậy nhặt gói quà trở về nhà giam.

        Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão.

        “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.


        Last edited by hoalucbinh18; 07-19-2021, 12:00 PM.

        Comment


        • Font Size
          #34
          Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành.

          Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa.

          Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ.

          Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

          Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976,
          các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện.

          “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”.

          Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.

          Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

          Chừng 7 tháng sau
          cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gặp bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói :

          “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”.

          Mắt tràn lệ, anh nói tiếp :


          “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”!

          Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

          “Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn giấu ở đâu.

          Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”
          .

          Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ.

          Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích.

          Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

          Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”.

          Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miền Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn.

          Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.



          Click image for larger version

Name:	mc6b0e1bb9di-quote2.jpg
Views:	116
Size:	91.9 KB
ID:	46176


          Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái.

          Ông Thảo không gặp lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu.

          Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

          Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính.


          Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng.

          Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.



          Click image for larger version

Name:	81TcDZ.jpg
Views:	107
Size:	48.2 KB
ID:	46177



          Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc.

          Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc.

          Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống.

          “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng :

          - “ Thật may là da và phổi còn tốt”.

          Nhưng cái đói thật là kinh khủng.
          Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn.

          Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ.

          Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, giảm ý chí và mất óc phán đoán.

          “May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

          “Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế ?

          Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu ? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

          Đầu tháng 9 năm 1978
          ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm.

          Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi.

          Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

          Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế.

          Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11.

          Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá.

          “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

          Còn tiếp ,

          Comment


          • Font Size
            #35


            Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu.

            Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai .

            “ Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm.

            Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành ”.

            Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách.

            Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà và trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao.

            Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

            Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “ tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh ”.

            Xếp hàng mua rau theo sổ phân phối ở một cửa hàng mậu dịch - Hà Nội năm 1980.



            Click image for larger version

Name:	910798148965691.jpg
Views:	109
Size:	39.0 KB
ID:	49488



            Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò.
            May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng.

            Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật.

            Hai mưoi phút sau
            thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng.

            Cán bộ đứng ở đầu bàn
            và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ.

            - “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”.

            Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết ?


            - “ Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới ”, thi anh xúc động hỏi lại,

            - “ Bộ chúng không đủ ăn sao ”? Bà chậm rãi trả lời :

            “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gặp lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”.

            Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò :

            -“ Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ ”!

            Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

            Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi.


            Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam.

            - “ Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau ”.

            Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng.

            Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành.

            - “ Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không ”?

            Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không.

            Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa ?

            -“ Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau ”.

            Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại.

            Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua.

            Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ.

            Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

            Khu vực bến xe Kim Mã, Hà Nội năm 1979



            Click image for larger version

Name:	1040918182620353.jpg
Views:	103
Size:	35.9 KB
ID:	49489

            https://anhxua.net


            Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa.

            - “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam.

            Nhưng nay miền Nam đã sụp đổ, thế là hết cả.

            Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

            Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ.

            Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt.

            Vì vậy khi ông Thảo được thả về
            thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị.

            Ông bị các đè ép. từ các cơ quan công an phường, quận.

            Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy đi vùng kinh tế mới.

            Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn.

            Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn. Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

            Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói :

            - “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả ?

            Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn.

            Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”.

            Bà Đảnh kết luận :


            “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”:

            Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.



            VÀI CÃM NGHĨ


            Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là :

            - Họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot).

            - - Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản.



            Click image for larger version

Name:	8c38fbb9.gif?w=560&h=1445&zoom=2.gif
Views:	108
Size:	69.2 KB
ID:	49490



            Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh.

            Không có lấy cái bằng sơ học,
            chỉ lặp lại những danh từ Sô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

            Ông ta đã học thuộc lòng câu


            - “ Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của.

            Hệt như “bước nhẩy vọt”
            của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường.

            Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm.

            Phí phạm chất xám như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu.

            Bây giờ kêu gọi trí thức và chất xám trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng ?

            Trần Đỗ Cung

            Comment


            • Font Size
              #36

              TRUNG TÁ VŨ VĂN SÂM - NHẠC SĨ THỤC VŨ 1932 - 1976




              Click image for larger version  Name:	image-20210519143713-1.jpg Views:	4 Size:	22.8 KB ID:	49772


              Năm 1960, một nhạc phẩm có tên là :

              - " Tình mùa chinh chiến " được giới yêu nhạc mến chuộng và được các nhà xuất bản tranh giành để được ưu tiên độc quyền xuất bản.

              Bản nhạc này cũng được thính giả của Đài phát thanh Saigon yêu cầu nhiều nhất trong thời gian đó.

              Thục Vũ, tên của tác giả bản nhạc nói trên, đã viết nên những dòng thơ nhạc dễ mến mà hơn 30 năm sau chúng ta hãy còn nhớ như in vào lòng :

              " Người ơi tôi lắng dòng tâm tư

              Nghe chuyện tình người em gái

              Mắt vương khói lam chiều..."

              Với 4 câu thơ mở đầu bản nhạc :

              "Nếu có khi nào nhớ đến tôi

              Thì xin dòng lệ chớ đầy vơi

              Hãy đem ánh mắt pha màu tóc

              Nhuộm áo thời gian, gửi cuối trời..."





              Nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là :

              Vũ Văn Sâm, sinh năm 1932 (tuổi Nhâm Thân) tại vùng Non Côi Sông Vị (làng Nam Lạng, Trực Ninh, Bắc Việt).

              Anh tốt nghiệp khóa 4 phụ Đà Lạt năm 1954, đúng vào năm ký kết Hiệp định Đình chiến Geneva chia đôi đất nước.

              Do đó, Thục Vũ kẹt lại ở miền Nam VN, bỏ lại phía bên kia bờ Bến Hải người vợ chưa cưới mà khi anh còn học ở Chu Văn An, anh đã sáng tác bản nhạc đầu tiên có tên là "Duyên em" để tặng nàng.

              Nhưng may thay năm sau (1955) người yêu của thiếu úy Vũ Văn Sâm đã vào được nơi miền Nam tự do và lễ cưới được cử hành vào năm 1956.


              Bước đầu của việc binh nghiệp, Thục Vũ được đưa ra phục vụ ở Đà Nẵng, và sau đó là Sư Đoàn 13 ở Tây Ninh và sau một thời gian tu nghiệp bên Hoa Kỳ về ngành Bộ Binh, anh được bổ nhiệm về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung với chức vụ Trưởng phòng Tâm Lý Chiến ở Trung Tâm Huấn Luyện nàỵ

              Cũng tại đây, một bản hùng ca được Thục Vũ cho ra đời để tác động tinh thần anh em tân binh.

              Đó là bài "Quang Trung hành khúc" mà chúng ta thường nghe trong phần nhạc hiệu của chương trình phát thanh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung của đài phát thanh Quân Đội trước 1975 :

              "Quang Trung đây

              Quang Trung

              Anh về đây với tôi

              Ta thi gan xây đời sống mới..."

              Năm 1972, Thục Vũ được đề cử làm Tham mưu phó của Sư đoàn 5 Bộ Binh ở Lai Khê (Bến Cát). Và đơn vị cuối cùng của nhạc sĩ Thục Vũ là Trường Sĩ quan Bộ binh Long Thành trước ngày CS cưỡng chiếm miền Nam. Lúc đó cấp bậc của Thục Vũ là Trung Tá.

              Với cấp bậc Trung Tá, lại phụ trách ngành Tâm Lý Chiến, Trung Tá Nguyễn Văn Sâm chắc chắn là phải đi học tập "mút mùa" nhưng người nhạc sĩ tuy cung cách nhà binh nhưng rất hiền lành này của chúng ta đã phải bỏ mình nơi chốn rừng thiên nước độc chỉ sau hơn 1 năm cải tạo.

              Năm 1975, Thục Vũ được CS đưa về Long Giao rồi đến trại Tân Hiệp (Biên Hòa).

              Ở đây, anh đã sáng tác nhạc phẩm "Suối máu" với 8 câu thơ cảm đề cũng của Thục Vũ :


              "Em ở Sai Gòn anh ở đây

              Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy

              Ngẫn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược

              Để nhớ nhung về che khuất mây


              "Tôi vẫn thường đêm thương nhớ con

              Thương em tình nghĩa vẫn vuông tròn

              Thương mình ray rứt từng đêm trắng

              Thương bạn anh trong chuyện mất còn


              "Anh ở đây bạn bè anh cũng ở đây

              Áo rách xác xơ thân gầy

              Cùng chung nếp sống lưu đày

              Anh ở đây ngày ngày cơm chưa đầy chén

              Chiều buồn ra xem bầy én

              Kiếm mồi thấp thoáng bay quanh..."


              Nghe nhiều anh em tù cải tạo có dịp đuợc gần nhạc sĩ Thục Vũ lúc còn trong tù kể lại, chính vì bản nhạc này mà nhạc sĩ Thục Vũ bị bọn CS đày đọa để đến giữa năm 1976, anh được đưa ra Sơn La và bỏ mình nơi sương lam chướng khí này vào ngày 15/11/1976.






              Ngày nay, một tấm mộ bia đơn sơ với đôi hàng nguệch ngoạc :


              - " Vũ Văn Sâm, 1932 ", được anh em tù cải tạo ghi lại, ngoằn ngoèo nơi chốn rừng thiêng nước độc Sơn La.



              Click image for larger version  Name:	81TcDZ.jpg Views:	6 Size:	48.2 KB ID:	49771



              Thục Vũ sáng tác không nhiều nhưng mỗi nhạc phẩm của anh là một tác phẩm, như bản :

              - " Trăng vàng dạ vũ " mà nhiều người rất thích. Vì là một quân nhân lại phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến cho nên phần đông những sáng tác của Thục Vũ là để phục vụ cho quân đội, cho chính ngành anh đang cộng tác.

              Ở đài phát thanh Saigon, anh có mặt trong ban Thi Văn Tao Đàn, chương trình Thi nhạc giao duyên và anh cũng là người thay thế thi sĩ Đinh Hùng để phụ trách chương trình Thi nhạc giao duyên trên đài Saigon khi Đinh Hùng mất.


              Là nghệ sĩ, vốn giàu cảm lụy, cho nên cuộc đời tình cảm của nhạc sĩ Thục Vũ cũng không thoát khỏi vòng "tình ái giăng tơ" nhưng với trường hợp của Thục Vũ, đây mới là chuyện tình thật sự vì nó đi ra ngoài những cái thông thường.

              Người ta bảo "trai tài gái sắc", nếu Thục Vũ yêu một cô gái đẹp, chúng ta chẳng nói làm chi vì họ mến nhau vì tài, cảm nhau vì sắc như trăm ngàn những chuyện tình tầm thường trên đời. Nhưng người yêu của Thục Vũ lại là "một cô gái trời bắt xấu".

              Nàng là Dương Thị Khánh, tức thi sĩ Lệ Khánh, tác giả những tập thơ "Em là gái trời bắt xấu", một công chức ở tòa tỉnh trưởng Đà Lạt. Chúng ta còn nhớ những vần thơ diễm tình của Lệ Khánh như :


              "Hôm nay trời vào thu

              Đà Lạt lắm sương mù

              Cây khô buồn trút lá

              Gió ven hồ bay xa


              Mây thu lờ lững trôi

              Lồng lộng gió lưng đồi

              Xin anh đừng giận dỗi

              Viết thư về thăm em…"


              mà Thục Vũ đã phổ nhạc với tựa đề "Tình người hậu tuyến", một bản nhạc đã làm xôn xao trong giới nhạc một thời.

              Tình yêu giữa họ xảy ra khi Lệ Khánh tròn 20 tuổi cho đến 1975, ngày mà Thục Vũ phải đi "cải tạo" và bỏ mình hơn 1 năm sau đó.

              Lệ Khánh đã sanh được một đứa con trai mang họ mẹ (Dương) và chữ lót là tên của mẹ (Khánh) với tên chữ đầu là Thục.

              Bà Thục Vũ, tuy đã biết về mối tình này, nhưng tuyệt nhiên không làm to chuyện mà trái lại ngày con của Lệ Khánh ra đời bà đã đến chăm nom và giúp đỡ kẻ tình địch.

              Năm 1976,tin nhạc sĩ Thục Vũ bỏ mình trong trại cải tạo Sơn La đã đem lại cho những bạn bè và những người ái mộ anh một nỗi bàng hoàng và căm phẫn. Thục Vũ là người rất hiền lành, hồn nhiên và vui vẻ với bạn bè, mất đi, để lại một người vợ cao thượng (với 5 đứa con), một người tình nhỏ bé, một đứa con kết hợp qua dòng thơ nhạc và một số tác phẩm vẫn còn in sâu trong lòng của những người mến mộ anh.


              "...Hôm nay dành tặng anh

              Vài giọt nắng thơm lành

              Mai kia tàn chinh chiến

              Áo em màu "Mosa"

              Đón anh về hoan ca"





              Vũ Chương


              Nguồn: dactrung.net
              http://www.hoanganhtuan.com/ThucVu/

              Comment


              • Font Size
                #37

                MỪNG CHO NGƯỜI CHẾT TRONG NHÀ TÙ " CẢI TẠO " !


                Click image for larger version

Name:	image_12284.jpg
Views:	205
Size:	67.7 KB
ID:	49977


                Bài đọc thêm

                Anh Tô Kiều Ngân không ở cùng trại tù với tôi, anh đi “lao động” bị ngã gãy tay, phải đưa về trạm xá gần trại giam tôi ở từ năm 1976 khi được đưa ra Sơn La “học tập”.

                Dịp đó, nhạc sĩ Thục Vũ, tên thật là Vũ Văn Sâm, ở cùng đội trồng rau với tôi, anh bị đau gan đến vàng mắt. Ban đầu còn được ở lại trại, không phải đi lao động.

                Tôi có nhiệm vụ “thó” một ít rau sống, cung cấp cho anh hàng ngày. Nhưng khi bệnh tình quá nặng, Thục Vũ được đưa sang bệnh xá.

                Nói là bệnh xá, chứ ở đây cũng chẳng có thuốc men gì chữa chạy cho bệnh nhân.

                Thậm chí mỗi lần lên khám bệnh xong, anh y tá bôi cho tí dầu cù là vào tay rồi bảo về uống đi hoặc nằm ngửa cổ ra để “cán bộ y tế” nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Thế là xong.

                Bệnh nhân nặng chỉ còn việc nằm chờ chết. Thục Vũ cũng ở trong trường hợp ấy.



                Click image for larger version  Name:	cdc-2-768x437.png Views:	1 Size:	526.9 KB ID:	49976




                Một buổi sáng sớm, tôi đang lúi húi trồng luống xu hào, bỗng thấy bên mình có cái gì kêu phần phật. Từ từ ngước lên, tôi thấy một mảnh quần trây-di rách bị gió thổi bay lắc lư làm nên tiếng động nghe cũng… vui tai. Tôi nhận ra ông Phan Lạc Phúc, khoác chiếc áo trây di cũng tả tơi “đồng bộ” với cái quần rách. Nước mắt ông Phúc chảy rất chậm trên mặt, ông nghẹn ngào cất tiếng :

                – Thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.

                Tôi lặng người, bởi mới hôm qua, tôi lẻn sang bệnh xá thăm, Thục Vũ đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ, anh nói :

                - “ Tôi mệt không hút thuốc được nữa ”.


                Ngồi nói chuyện vài phút, anh Tô Kiều Ngân ở trạm xá này cũng đến ngồi chơi. Tôi thấy Thục Vũ vẫn còn khỏe, vậy mà đêm qua đã ra đi.


                Sau đó, anh Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi đúng nhất, ngắn nhất và cũng bi thảm nhất :

                “ Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa ”.




                Click image for larger version  Name:	aee5d-db5f4-quoc-han-thap-nen-huong-long.jpg?w=768&h=416.jpg Views:	1 Size:	42.0 KB ID:	49981



                Đám tang Thục Vũ, hình ảnh bi thảm nhất trong cuộc đời chúng tôi.

                Nhưng vào buổi chiều năm 1977,
                khi đồi núi Sơn La bắt đầu chạng vạng, chúng tôi đang làm những công việc cuối cùng ở vườn rau thì bất chợt nhìn sang lối ra từ bệnh xá một khung cảnh hết sức đau lòng.

                Trên con đường đá cũ nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, cách vườn rau là cái ao, đám tang bắt đầu di chuyển chậm chạp.

                Hai anh cai tù vác súng AK đi đầu, theo sau là một anh tù cầm vài nén nhang, đến 4 anh tù khiêng cỗ quan tài mộc, sau cùng lại là 2 anh cai tù vác súng AK.

                Suốt con đường dài âm u đó, chỉ có đám người ấy lặng lẽ chuyển động như những bóng ma.






                Ở vùng đồi núi bóng tối đổ xuống rất nhanh, mang theo sương mù mỏng dăng ngang triền dốc dựng đứng như những bức tường đá của nhà giam thiên nhiên, chẳng cách nào thoát ra được.

                Chúng tôi biết chắc đó là đám ma Vũ Văn Sâm tức nhạc sĩ Thục Vũ.

                Tất cả hơn ba chục tù nhân trong đội rau đứng ngẩn ra, dán mắt nhìn theo cái đám ma thê thảm ấy.

                Ông Phan Lạc Phúc, đến bên tôi, không nói lời nào, quay mặt đi giấu nước mắt.

                Nhìn sang phía bên trạm xá, Tô Kiều Ngân và mấy anh bác sĩ trẻ cũng là tù, đứng sau hàng rào kẽm gai cũng ngơ ngẩn.

                Ngân vẫy tay cho tôi và anh Phan Lạc Phúc chẳng biết để làm gì. Là một sự cảm thông tận cùng hay nói lời từ biệt.

                Mấy tay coi tù cũng đứng lặng, nhìn chúng tôi và họ hiểu rằng :

                - " Lúc đó dù bắt chúng tôi thu dụng cụ về trại cũng chẳng ai chịu về, dù có bị bắn tại chỗ. "

                Tất cả đứng như tượng gỗ dõi theo đám tang đi trong buổi hoàng hôn lạnh ngắt, dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi. Sương mù bắt đầu tỏa xuống. Ai đó bỗng cất lên tiếng hát :

                - “Sơn La âm u núi khuất trong sương mù. Đoàn thù tha hương cất bước lê trên đường…”.

                Một bài hát xưa cũ của những nhà cách mạng thương tiếc những chiến sĩ bị giặc bắt cầm tù ở Sơn La. Sao lúc này nó hợp với chúng tôi thế.

                Hình ảnh cái đám ma Thục Vũ còn in đậm trong tâm khảm chúng tôi cho đến bây giờ. Tôi chắc anh Tô Kiều Ngân, đến cuối đời cũng chưa quên được hình ảnh này.

                Nó trở thành những kỷ niệm rất riêng nhưng cũng lại rất chung của những ai đã từng sống dở chết dở qua những cái được gọi là “trại cải tạo”.


                ***

                Lời bản nhạc "Anh Ở Đây"


                Lời thứ nhất


                Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây

                Áo rách xác xơ vai gầy

                Cùng chung kiếp sống lưu đầy

                Anh ở đây, ngày này cơm chưa đầy chén

                Chiều chiều xa trông đàn én

                Kiếm mồi thấp thoáng bay nhanh

                Toa liền toa, tầu đi trong ánh hoàng hôn

                Tiếp nối những dư âm buồn

                Thành thơ ray rứt tâm hồn

                Trăng ngậm sương, mịt mờ không soi nẻo tối

                Đường dài sao rơi lạc lối

                Cho lòng giăng mắc không nguôi

                Chiều Suối Máu xót xa buồn nhớ con

                Tình thương em vẫn đong đầy khoé mắt

                Chiều Long Giao sương mờ đêm u uất

                Nhớ thương vơi đầy hẹn hò vương chân mây

                Anh ở đây, bạn bè anh cũng ở đây

                Vẫn giếng nước sâu bên cầu

                Tìm trăng, trăng vướng dây gầu

                Anh ở đây, ngày này bên trong rào sắt

                Hận thù ưu tư chồng chất

                Giữa lòng núi cũ sông xưa


                Lời thứ hai


                Anh đẩy xe, bạn bè anh cũng đẩy xe

                Dưới nắng gắt gay trưa hè

                Lòng đau viễn xứ ê chề

                Mưa chiều đông nhạt nhòa mưa rơi lạnh giá

                Ngậm ngùi trông nhau lặng lẽ

                Chân buồn đếm bước lê thê

                Ôi đời ta, ngờ đâu trăm đắng nghìn cay

                Khúc sắn bát ngô vơi đầy

                Sầu nuôi thân xác hao gầy

                Bao ngày qua đợi chờ tin vui chẳng thấy

                Hận thù yêu thương còn đấy

                Vui đành như cánh chim bay

                Người giữ nước phát gian miền núi xa

                Chiều Sơn La mưa rơi nhòa nước mắt

                Người đi xa trong niềm đau chất ngất

                Lối xưa không về hẹn hò đành đơn sai

                Ôi người đi, về đâu khi nắng chiều phai

                Nắng úa xót xa thương người

                Chiều nao gục ngã trên đồi

                Chim rủ nhau về rừng ru anh ngủ mãi

                Hình hài tan theo cỏ cháy

                Kiếp người kiệt sức buông tay

                Anh ở đây ! Anh ở đây ! Sao vẫn còn ở đây?

                (Lời thứ nhất của chính Thục Vũ. Lời thứ hai do nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm ghi thêm.)


                Click image for larger version  Name:	%255BUNSET%255D.jpg Views:	1 Size:	76.1 KB ID:	49978

                Văn Quang

                Comment


                • Font Size
                  #38

                  LÀM THINH


                  Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển.

                  Người trong làng gọi cái nhà đó là
                  “nhà ông Lê”.

                  Cách đây mấy năm, ông Lê -người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm.

                  Ông có mướn một người trong làng – tên Jean Marie – trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

                  Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn.

                  Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà ! Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước v.v...
                  Họ hay nói với nhau :

                  - “ Vợ chồng ông Lê thật dễ thương ”.

                  Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm.

                  Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài.


                  ( Phần đẹp nhất của Etretat là đây: Những mỏm đá tự nhiên nhô ra phía biển tạo thành hình vòng cung độc đáo mà người dân nơi đây hay gọi là những “con voi của Chúa”.)

                  https://www.phapfr.vn/nghe-thuat-son...om-da-dieu-ky/


                  Click image for larger version  Name:	rsz_16.jpg Views:	1 Size:	26.3 KB ID:	51341


                  Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia- rằng :

                  - Phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua.

                  Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.


                  Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ :

                  - “ Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy ”.


                  Ông Lê giới thiệu :

                  - “ Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia ”.

                  Sau đó, ông nói :

                  “Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho”.

                  Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói :

                  - “Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm”.


                  Ông Jean Marie hỏi :

                  - “ Còn bà cụ đâu? Sao không cùng ra đây với ông cụ ?”.

                  Ông Lê trả lời như không trả lời :

                  - “ Mẹ tôi ở Paris ”.

                  Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như
                  không muốn vấn vương gì nữa !

                  Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con.


                  Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng.

                  Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó.

                  Ở ngoài đó không có gì hết ! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao . Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng.

                  Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.



                  Click image for larger version  Name:	img00072492-1-1358060088.jpg?w=500&h=0&q=100&dpr=1&fit=crop&s=t-osCeE7-YLNFcj7uWTZ9A.jpg Views:	1 Size:	15.6 KB ID:	51342


                  Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm.

                  Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện.
                  Suốt ngày, ông làm thinh.Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh.

                  Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết ! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.


                  Ông già đó tên Lê Tư.

                  Hồi thời trước -cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản- ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại “biết cách giao du”, thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

                  Ông thường nói :

                  - “ Hồi tôi từ Đà Nẵng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ.

                  Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng.

                  Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết. Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác.

                  Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết ”.

                  Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ.
                  Ông hay nói đùa :

                  - “ Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền !”.


                  Click image for larger version  Name:	26efb8657b825859dc3f2d383ea5cfc7.gif Views:	1 Size:	48.6 KB ID:	51343


                  Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói :

                  - “ Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng”. Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.

                  Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm
                  chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.

                  Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản.
                  Bà nói:

                  - Trời ơi ! Mấy bả đi hết rồi kìa!

                  Ông cười :

                  - Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, “họ” đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không ? Tôi bình chân như vại !

                  Điều mà ông không nói cho bà biết là :

                  - Từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

                  Đâu dè, sau khi cách mạng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, cách mạng quay về đánh tư sản.

                  Ông Lê Tư cũng “bị”
                  mời đi “làm việc” như mọi người.

                  Ông có xuất trình giấy chứng minh của
                  Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng “lá bùa” đó không linh ! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng.

                  Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để “làm việc”.

                  Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi.

                  Rồi đến lần “làm việc” cuối cùng , ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược ! Ông không còn khái niệm không gian thời gian.

                  Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó,ông trắng tay.

                  Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa :

                  - “Nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo”.

                  Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc
                  “đổi đời vĩ đại” này, con người đâu còn sống bằng lý trí :

                  - Con người chỉ sống bằng bản năng thôi!

                  Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.



                  Click image for larger version  Name:	bp1egQ.jpg Views:	1 Size:	25.0 KB ID:	51344


                  Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói:

                  - “ Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được !”.

                  Và bà thường ví chồng bà
                  như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa.

                  Cách mạng mà ông
                  [color=greenđã giúp [/color]từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không . Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì !

                  Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết ! Ông đã trở thành một
                  “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

                  Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

                  Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết ! Yên lặng.


                  Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình :


                  - Sao ông ? Họ đòi gì nữa vậy ?

                  - Họ đâu có đòi. Họ lấy.

                  - Lấy gì ?

                  - Lấy hết tài sản của mình.


                  Giọng bà bỗng cao lên một nấc :

                  - Lấy hết tài sản ?

                  Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc :

                  - Gì lạ vậy ? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy ! Rồi ông trả lời làm sao?

                  Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói :


                  - Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

                  Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời !” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

                  - Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

                  - Còn luật pháp để đâu ?

                  - Luật pháp của ai ?

                  Bà làm thinh . Một lúc sau, bà nói:


                  - Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy ?

                  Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng.

                  Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ.

                  Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

                  Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc :

                  - Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

                  - Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

                  - Sao mất hết được ? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X., như anh T., như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

                  Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

                  - Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

                  Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù :

                  - Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì ? Phải không?

                  Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết ?






                  Chiều bữa đó ,
                  cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết.

                  Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi ! Gã còn nói như ra lịnh:

                  - Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ ?

                  Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa :

                  Ông làm thinh
                  biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng !

                  Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ -có ba dải nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân- và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng ?v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông.

                  Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông
                  “phải” nghe.

                  Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở
                  “chui rút” trong nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng !

                  Thời gian đi qua.
                  Một hôm bà bỗng nói với ông :

                  - Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.

                  Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng
                  “thần tượng” của thời trước chỉ còn là một cái bóng! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu... Đúng là một sự “đổi đời vĩ đại” !

                  Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.


                  Click image for larger version  Name:	a%2Ba%2B1393%2Ba.jpg Views:	1 Size:	75.7 KB ID:	51345


                  Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại. Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng :

                  -“ Cha mày !”. Rồi tiếp :

                  -“ Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ !” Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.


                  Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, [b][size=4][color=black][i]nhứt là ở đoạn “mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần”.

                  Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có
                  “cái gì không ổn”, nhưng ông nghĩ :

                  “Có lẽ tại nó ở bên nây lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời”.

                  Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu
                  “cho tụi nó chết”.

                  Bổng người con hỏi :

                  - Còn mấy thằng tướng nguỵ ?

                  Câu hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật :

                  - Không phải con ông không nói rành tiếng Việt
                  mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên ông vẫn trả lời :

                  - Mấy người đó thì ba không biết.

                  - Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nây báo chí tê-lê nói đầy đủ . Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun !

                  Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran.
                  Tự nhiên, ông ứa nước mắt.

                  Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.

                  Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống
                  “tụi nó” y chang !

                  Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu.


                  Về đến nhà -ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói :

                  - Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.

                  Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt- không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng.

                  Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư.

                  Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.




                  Click image for larger version  Name:	teka_flor_janela%2B21.gif Views:	1 Size:	655.2 KB ID:	51346


                  Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng:

                  - Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.



                  Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi :

                  - Ba má định qua đây ở chơi bao lâu ?

                  Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời :

                  - Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.

                  Người con ngạc nhiên :

                  - Ủa? Sao lại ở luôn ? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý !

                  Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng :

                  - Nó đã đứng hẳn về phía bên đó.
                  Ông nghe lòng quặn thắt :

                  - Chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.

                  Ông Lê Tư làm thinh.
                  Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh :

                  - Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu . Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao ?

                  - Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi ! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết !

                  Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.



                  Click image for larger version  Name:	43058602_2028515153858693_685332138827972608_n.png?_nc_cat=111&ccb=1-3&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=rWQB4e6ba0IAX_Twn1t&_nc_ht=scontent.fyyz1-2.fna&oh=ced16ebb793dccceb0b4feb0e7e818f7&oe=61276663.png Views:	1 Size:	649.1 KB ID:	51347


                  Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt - thật mệt - và chán chường - thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách [b][size=4][color=red][i]“đầy đủ và trung thực”!

                  Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.


                  Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói:

                  - Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má.
                  Con chỉ cần lo cho ba thôi.

                  Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang :

                  - Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao .

                  Ông nói
                  “xin con cho ba”, đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.

                  Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư!


                  Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời !

                  Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ.

                  Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằng trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ. Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút.

                  Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng “cám ơn”, nhẹ như hơi thở.

                  Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi


                  Click image for larger version  Name:	ETRETAT7.jpg Views:	1 Size:	60.7 KB ID:	51348


                  Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang.

                  Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết ! Ông chỉ thấy toàn là bế tắt. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì :

                  Trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết ! Giống như cuộc đời của ông bây giờ.

                  Của cải : hết !

                  Vợ con : hết !

                  Sức khoẻ của ông rồi cũng sẽ hết ! Hết ! Hết !


                  Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng. Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.

                  Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn :

                  - “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.


                  Tiểu Tử



                  Comment


                  • Font Size
                    #39
                    ĐÒN THÙ !!!!



                    “…Trời ơi !! Chúa đâu ?.Phật đâu ?.Sao tôi khổ thế này !!??”

                    Từ lưng đồi,trong cơn mưa tầm tã . Ông Trung Tá “ thua cuộc” trượt chân,lăn nhiều vòng cùng khúc cây,(chỉ tiêu lao động), đè ngang cổ .Dẫy dụa nhiều lần .. Khi đứng dậy được..Hai tay dơ lên trời , ông gào thét như nỗi đau của một con thú rừng bị sập bẫy !! ..Bộ quần áo tù mỏng dính , ướt sũng, dán sát người ông.Từ một góc khuất trong bụi rậm,tôi thấy rõ một bộ xương cách trí đang lơ lửng giữa trời.

                    Ôi !.còn đâu “ ..Vùng trời nào đó anh đã bay qua.

                    Chỉ còn lại đây..rừng núi bao la..”

                    Tận cùng của nỗi tuyệt vọng.!!






                    - Phạm văn Đồng :

                    “..Học tập cải tạo..Những người này chúng tôi cho họ một cơ hội để trở lại làm người..”



                    Click image for larger version  Name:	f8D78I.jpg Views:	5 Size:	40.0 KB ID:	53364


                    - Đỗ Mười :


                    “Giải phóng miền Nam,chúng ta có quyền tịch thu tài sản,trưng dụng nhà cửa,hãng xưởng,ruộng đất của chúng nó.Xe chúng nó ta đi.Vợ chúng nó ta lấy.Con chúng nó ta bắt làm nô lệ.Còn chúng nó thì ta đầy đi làm lao động khổ sai tại vùng kinh tế mới hay nơi rừng sâu,nước độc.Chúng nó sẽ chết dần,chết mòn..”.



                    Click image for larger version  Name:	43026780_10158116778685620_5948139704749654016_n.jpg?_nc_cat=110&ccb=1-4&_nc_sid=730e14&_nc_ohc=arr9dBzyrUAAX8ZbtRD&_nc_ht=scontent.fyyz1-2.fna&oh=33ef1f4bbe0205cc9cd21b88e4f8dc0e&oe=613538CE.jpg Views:	3 Size:	95.3 KB ID:	53365




                    - Dương thu Hương :

                    “..30/4/1975..Kẻ dã man thắng người văn minh..”


                    Click image for larger version  Name:	x1QGp5.jpg Views:	3 Size:	23.8 KB ID:	53366



                    ***


                    .Hai bà mẹ già nhai trầu bỏm bẻm,ngồi trên cái băng ghế của một kios báo bỏ hoang ở trước cổng trường nữ trung học Lê văn Duyệt xem những thằng con lính bại trận trình diện “học tập cải tạo”. Một bà kéo vạt áo lau nước mắt nói :

                    “ Tôi nghiệp tụi bay qúa !!”

                    Tôi cúi đầu lặng lẽ bước vội trong âm thầm tư duy :

                    “..Anh trở về bại tướng..cụt chân!!..”


                    ***

                    “..Còn chúng nó thì ta đầy đi nơi rừng sâu nước độc.Chúng nó sẽ chết dần,chết mòn..”. ( Đỗ Mười)



                    Click image for larger version  Name:	FN7qmt-P0-Ee3d-Wvt-Jo-Pc-V0u-Oiw-HENR1w-S0f-Ui-Me-QAs-O8-C-49-Df-KYz1-wm23t-Wc4.jpg Views:	3 Size:	86.1 KB ID:	53368


                    ***

                    – “..Em ơi..con ơi.. Đau qúa..tôi chết mất..”

                    Thiếu Tá Đại trước khi chết, ông lăn lộn gào thét gọi tên vợ,tên con..Không gọi tên ..Tổ Quốc.!!.. “..

                    Còn đất nước thì còn tất cả.Mất đất nước là mất tất cả..!!”.(Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu)

                    Ống quần tù mỏng dính mắc kẹt vào miếng sắt đóng vào cái cột gỗ làm nấc thang leo lên tầng trên, khiến ông té lộn ngược, đầu đập xuống sàn xi măng .Tôi nghe rõ âm thanh của một trái dừa khô lột vỏ ném xuống trước chân tôi !!..

                    Vỡ sọ. !!

                    Ông vật vã cuộn người đau đớn .Bốn mươi hai tù nhân la vang trong phòng giam :

                    - “..Cứu người..Cứu Người..”

                    Toàn thể trại tù im lặng rợn người ngoại trừ âm thanh của tiếng thìa,muỗng đập liên tục vào song sắt cửa sổ..

                    Cuối cùng..mãi tới nửa đêm , hai tên cai tù xuất hiện quát :

                    “..Vần anh đó ra gần cửa sổ này..vạch mông ra..” .Một mũi kim qua song sắt. Ông ngủ yên..Phòng giam trở lại im lặng lạnh người.

                    Cuối cùng,trời hừng sáng,ánh nắng vừa lọt qua song sắt

                    .Thiếu Tá Đại tắt thở ,không kịp một lời giã từ anh,em… Ông.. hối hả bay bổng tìm đường về Nam gặp lại vợ,con.!!

                    “.Anh không chết đâu em..Anh sẽ về gặp mẹ,con em !!’

                    Khi liệm ông,trong túi áo của ông còn nguyên phần ăn :

                    - Hai mẩu khoai mì nấu chín cùng những mảnh vỏ sống chưa kịp muối chua..

                    - Đại Úy Đức nằm cạnh tôi không dậy nữa.Khi liệm anh,trong túi áo của anh có hai lát bí và cái đầu gà toi đen thui..

                    - “..Cao lương này thay cho bát cơm cúng !!”

                    “.. Đúng là Xã Hội Chủ Nghĩa..”.

                    Đức nói khi đám ròi ở dưới hầm cầu lổn nhổn , chen chúc giành nhau phần bo bo do anh vừa thải ra . Phía bên kia có người nghe được..

                    Đức bị cùm ngang ngực bằng cái ách trâu,nằm trên một tấm ván suốt 45 ngày.

                    Khi được thả ra,anh đi không vững.Mình trần dơ xương.Cái áo tù không còn nữa,nó đã được anh xé ra nhiều lần để làm vệ sinh..Anh chết vì kiệt sức!!..

                    Đức vĩnh viễn nằm lại ở núi rừng Hoàng liên Sơn!!..

                    Khi còn sống,Đức luôn cay cú nói :


                    “ Thêm 6 trái CBU nữa thì ngày hôm nay bọn mình đâu như thế này..”.

                    Đức đúng hay sai ?.

                    Tại quán phở 79 giữa Thủ Đô Little Saigon ,Tướng Đảo nói với tôi :

                    - “..Cho qua thêm vài trái CBU..Qua đánh tụi nó không kịp chạy về Bắc..”



                    Click image for larger version  Name:	8de192bd2b322717c66a3a89ce25b2dcd2669d6118e740c1b9cb2f2d8fce3ce0.png Views:	3 Size:	337.4 KB ID:	53369



                    - Đại Úy Thịnh.. “….Xin cho tôi nói..”

                    Tên bộ đội tay nắm sẵn miếng giẻ vội nhào tới nhét vào mồm anh .Một tên nữa vội quàng khăn bịt mắt anh lại, cùng sáu tên khác xô đẩy anh loạng choạng,nghiêng ngả ra bãi bắn !!.

                    “..Xin cán bộ cho tôi tháo miếng vải che mắt và miếng giẻ ở miệng của anh ấy được không ?”

                    Tên cai tù :

                    - “ Để nguyên vậy..Lấp đất..”

                    .. “..Con gởi về cho cha một manh áo trắng

                    ..Cha mặc một lần khi ra pháp trường phơi thây !!..”( Việt Dũng)

                    Thịnh bị tử hình chỉ vì một mẩu giấy nhỏ viết vài chữ gởi cho vợ bị lọt vào tay chúng như sau :

                    “ ….Em hãy nhớ lời anh dặn.Dù anh còn sống hay đã chết.Mình có hai đứa con gái,không bao giờ cho nó lấy lũ cán ngố rừng rú..Ở đây anh trốn lúc nào cũng được.Anh là sĩ quan Quân Báo tốt nghiệp ở Okinawa mà em..”

                    Tướng Loan bắn thằng Bảy Lốp.Tên Việt Cộng vừa tàn sát dã man cả một gia đình 5 người lớn,bé vô tội.Máu ngập tràn mắt cá chân.
                    Hành động nào là dã man ?!



                    Click image for larger version  Name:	1044965_202026916657986_215369516_n.jpg Views:	3 Size:	65.1 KB ID:	53370



                    Đại Úy Kha trong khi phát quang trên sườn đồi bị rắn cắn .

                    Nọc độc chạy khắp mình anh .Khi ở đùi. khi ở tay.Khi lên má.Khi xuống cổ.v.v.. Xin đi viện (bệnh viện) chữa.Chúng không cho . Đúng 49 ngày sau anh chết !.!..

                    Những ngày đầu của 49 ngày chập choạng với thần chết”.Kha sợ !!.Nhưng sau đó anh bình tĩnh lạ thường!!..

                    Kha chưa lấy vợ.Mồ côi cha từ bé.Anh có một em gái.Mẹ già thủ tiết nuôi con.Em gái báo tin mẹ anh mới qua đời.

                    Kha kể :

                    - “..Ngày đi trình diện “Học tập cải tạo”.Mẹ anh nói: “..

                    - Con mang làm gì nhiều thứ vậy?.Học tập có mười ngày rồi về…Nghe đâu nhà hàng chở đồ ăn đến..”

                    Thời gian mười ngày thì mẹ anh sai.Nhưng nhà hàng sang chở thức ăn đến thì đúng.

                    Nhà hàng Caraven.Một tên bám bên cửa xe ,mình mặc áo trắng,đầu đội mũ trắng,tay đập ầm ầm vào thành xe dẹp đường.Chạy nhiều vòng quanh phố,sau đó vào thẳng cổng trường.Bà ,con, cô, bác hai bên đường nói :

                    - “ Sướng quá…”

                    Trong xe ,một sọt bánh mì cộng một nửa thùng phi canh rau.

                    Những ngày cuối Kha thường nói :

                    - “ Ngoài Bắc này nhiều chim bìm bịp quá..”

                    Khi liệm ,không thấy vết tím trên mình anh.Tôi đoán,nọc độc đã chạy vào nội tạng..

                    Đài BBC bình luận: ( Chiêu lừa Học Tập Cải Tạo ) :

                    - “ ..Trong lịch sử chiến tranh của nhân loại.Lần đầu tiên những bại binh tình nguyện đi vào tù. !!”

                    Đại Úy Cát ngồi bất động trong một bụi rậm,hai mắt nhìn chăm chăm qua bên kia bờ suối.

                    Hai vợ chồng và một đứa con trai cộng thêm một con chó đang ăn một rổ khoai lang.Họ chuẩn bị lên núi hái măng vầu..Những mẩu đầu khoai lang được ném xuống đất.Con chó táp vội rồi nhả ra.Người và chó vừa rời khỏi chỗ, khuất xa ở lưng núi.Cát phóng qua,vội nhặt những mẩu khoai, bỏ vội vào miệng nhai ngấu nghiến..

                    Cát là tiểu đoàng trưởng Địa Phương Quân.Anh thường kể cho tôi nghe những ngày,tháng vàng son :

                    - Lính của anh làm đồ nhậu sau mỗi khi hành quân trở về hậu cứ .Cái món làm tôi thèm chẩy nước rãi là món chim sẻ chiên giòn chiêu với rượu huyết chim.. Cát cũng giống như Đức , Kha .

                    Cả ba người đều vĩnh viễn nằm lại ở rừng Hoành liên Sơn

                    Cát và một người bạn không cầm cự được với trái độc.Hai người làm một bụng đầy.Mạch máu vỡ tung,da thịt tím bầm.Chết ngay dưới gốc cây cổ thụ . Đám cỏ nơi hai người chết nằm dạt,chứng tỏ họ đã vô cùng đau đớn lăn lộn nhiều lần !!.

                    Tên trưởng trại để xác hai người trên một cái chõng tre .Tuyên bố :

                    “..Mặc dầu hai anh này có vi phạm nội quy là cải thiện linh tinh.Nhưng trong quá trình cải tạo có lao động tốt,nên tôi nhân danh Đảng và Nhà Nước cho hai anh được phục hồi quyền công dân !!??”






                    Trong những ngày ,tháng lao động khổ sai cùng nhau,tôi thường nghe Cát hát :

                    .. “..Tới trước ngõ cũ nghe kể rằng :

                    Giặc tràn qua thôn xóm.gieo bao đau thương ,bao điêu tàn từ ngày anh vắng xa..”

                    Cát xem ra luôn hãnh diện,hào hứng với cuộc đời.. “Chinh chiến điêu linh “ đã qua của anh..

                    .. “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

                    Thuở tung hoành,hống hách những ngày xưa

                    …Nay xa cơ bị nhục nhằn tù hãm

                    Khinh lũ người kia ngạo mạn,ngẩn ngơ..” ( Thế Lữ )




                    Click image for larger version  Name:	6CcmdZ9zlDlvBSk_dv3AYysQ6IZ8wNiuM0BDZ9LGWbNt2pH4fh57zZK0TOTQVzT_Iny_PidM1Gj-7-GUqnBmkCkem2YkigIvl33Sh3hnv56LibZoyzkWCrdXc-125pu-voAUAmLotP-qnFnO0g.jpg Views:	3 Size:	36.4 KB ID:	53371


                    Đại Úy Cư,sợi giây thừng vòng qua cổ.Hai tên bộ đội kéo xác anh đi vòng sân của khám Chí Hòa.Máu từ tim vẫn chẩy ra vẽ thành những vòng tròn trên mặt gạch

                    Đoàn xe chở tù về tới ngã Sáu đường Lê văn Duyệt.Khi gần tới cổng Biệt Khu Thủ Đô. Xe chạy chậm.Cư bất thần đạp một tên vệ binh lộn xuống đường.Tên thứ hai bị Cư ném một nắm muối vào mặt .Hắn bóp cò,viên đạn bắn trượt vào mâm bánh xe phụ sau lưng Cư, vòng ngược xuyên ngay tim anh. Cư chết tức thì!!..Những “ phạm nhân” trên cùng xe kinh hoàng!!..

                    Cư còn độc thân có bằng Cao Học Hành Chánh.Võ Sư Việt Võ Đạo.Tốt nghiệp Hòa Âm trường Quốc Gia Âm Nhạc Sài Gòn. Gốc Cục Tâm Lý Chiến.Biệt Phái Bộ Canh Nông.Sau 30/4/1975 anh thuộc sự “ quản lý” của Ủy Ban Quân Quản Việt Cộng.

                    Sau khi “học tập” ít ngày,chúng điều anh vào Camp David trong Tân sơn Nhất dịch tài liệu. Một thời gian sau,Cư bỏ trốn lên Ngã Ba biên Giới toan tính vượt biên.Anh bị bắt !!.

                    Mười năm sau,tôi ghé thăm nhà gọi người em út ra quán cóc cà phê nơi đầu ngõ kể cho em nghe về cái chết của Cư .Em cho tôi biết Người anh thứ hai Thiếu Úy Luật Sư đi “ cải tạo” cũng mất tích !!.

                    Nhà có cha,mẹ già và 3 con trai.Nay còn lại một người.Tôi khuyên em đừng cho bố,mẹ biết tin này..

                    Nửa năm sau,tôi ghé nhà em.

                    Tôi được biết thân mẫu em chờ hoài không thấy con về nên bà héo hắt mà chết.Còn thân phụ em thì sáng nào cũng cái ô cắp nách,lên xe lam đi tìm..hai đứa con trai …

                    Có khi trưa thì về,có khi tối mới về .Kể cho tôi mà em khóc nức nở !!.Còn tôi thì nghẹn ngào uất hận !!..

                    “..Ta về cúi mái đầu sương điểm

                    Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

                    Cám ơn hoa đã vì ta nở..

                    Thế giời vui từ mỗi lẻ loi..”. ( Tô thùy Yên)

                    Thủ Đô Little Saigon 8/2020

                    Lỗ Trí Thâm


                    Click image for larger version  Name:	81TcDZ.jpg Views:	3 Size:	48.2 KB ID:	53372
                    Attached Files

                    Comment


                    • Font Size
                      #40

                      " NỖI ÁM ẢNH "CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN VỀ BIẾN CỐ SÀI GÒN 1975 SỐNG LẠI TRONG KHỦNG HOẢNG KABUL


                      Hình ảnh trực thăng của quân đội Mỹ ngày Sài Gòn thất thủ (trái) và tại Kabul khi bị Taliban chiếm lại, được Bộ trưởng Nhân quyền Pakistan, Shireen Mazari, chia sẻ trên Twitter.

                      Những hình ảnh này làm nhiều người Việt tị nạn hồi tưởng lại biến cố Sài Gòn cuối tháng 4/1975.



                      Click image for larger version  Name:	236107768_10224289222117188_7520635747190664671_n.jpg Views:	1 Size:	42.6 KB ID:	55727


                      Dù Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken khẳng định rằng :

                      - “ Kabul không phải là Sài Gòn ” nhưng những gì xảy ở Afghanistan trong những ngày qua đang gợi lại những ký ức và “ nỗi ám ảnh” của người Việt tị nạn về biến cố 40/3/1975.

                      Sau 20 năm tham gia vào cuộc chiến ở Afghanistan, Mỹ quyết định rút quân khỏi đây, bắt đầu bằng một hiệp ước hoà bình mà Tổng thống Donald Trump ký với Taliban vào năm ngoái.[b][size=4][color=black][i]

                      Giống như cuộc chiến tranh Việt Nam, sau khi quân đội Mỹ rút lui, Taliban đã chiếm được thủ đổ của Afghanistan, Kabul, nhưng nhanh hơn nhiều so với quân Bắc Việt chiếm được Sài Gòn.

                      Kabul thất thủ nhanh chóng khiến Tổng thống Ashraf Ghani phải rời bỏ ngay trong ngày Taliban tiến vào thủ đô của Afghanistan hôm 15/8.

                      Những hình ảnh và ghi nhận của truyền thông quốc tế trong những ngày qua so sánh việc Taliban chiếm được Kabul với việc Sài Gòn bị thất thủ năm 1975.

                      Hình ảnh nổi bật nhất cho sự so sánh này là chiếc trực thăng vận tải của quân đội Hoa Kỳ chuẩn bị đáp trên nóc toà Đại sứ Mỹ ở Kabul hôm 15/8.

                      Một hình ảnh tương tự được đăng kèm là chiếc trực thăng của quân đội Hoa Kỳ đậu trên nóc một toà nhà bên ngoài Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn để đón người Việt Nam di tản.

                      Bộ trưởng Blinken hôm 15/8 phủ nhận sự giống nhau của hai sự kiện này khi nói rằng “Đây rõ ràng không phải là Sài Gòn” trong cuộc phỏng vấn với ABC News.





                      Tổng thống Biden trước đó vài ngày cũng phủ nhận sự tương đồng của việc rút lui của quân đội Mỹ ở Afghanistan và Việt Nam.

                      Ông được Reuters trích lời khẳng định tại một cuộc họp báo hôm 12/8 rằng sẽ không có việc di tản người bằng máy bay từ một nóc toà đại sứ Mỹ ở Afghanistan.

                      Tuy nhiên, đối với những người Việt và gia đình của họ từng chứng kiến sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975, thì những gì đang diễn ra ở Afghanistan “mang lại cho họ nỗi ám ảnh,” theo Hội người Mỹ gốc Việt cấp tiến PIVOT.

                      Tổ chức này nói trong một thông cáo ra hôm 15/8 về cuộc khủng hoảng đang diễn ra tại Afghanistan rằng :

                      Những cảnh tượng của “cuộc di tản hỗn loạn từ những thành phố đã sụp đổ, nỗi sợ hãi và hoảng loạn của người dân, sự tuyệt vọng của nhiều người đang tìm cách thoát ra khỏi xứ sở này bằng bất cứ giá nào và đưa gia đình họ đến nơi an toàn… giống những gì đã xảy ra trong hai năm cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam sau khi quân đội Hoa Kỳ rút khỏi đây .”

                      “(Những hình ảnh đó) mang lại những nỗi đau buồn… làm chúng ta nhớ lại hoàn cảnh di cư, chạy loạn, rời bỏ đất nước và đồng thời mình biết là chế độ sắp đến là một chế độ độc tài,” ông Vũ Bảo Kỳ, một cựu di dân Việt hiện đang sinh sống tại Atlanta, Georgia, nói với VOA khi nhớ lại những hình ảnh ngày Sài Gòn sụp đổ mà ông được xem từ đảo Guam, nơi ông cùng gia đình đang tạm trú sau khi rời Việt Nam trước đó một tuần .

                      Theo ông Kỳ, người nằm trong số hơn 100.000 công dân Việt được di tản tới đảo Guam trước và sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975, hình ảnh những người Afghanistan đổ về sân bay Kabul “để được chính phủ Hoa Kỳ cứu vớt… sẽ đem lại cảm giác đau thương mà chúng tôi đã trải qua cách đây 46 năm.”


                      CHẠY TRỐN

                      Hàng trăm người đã chạy theo và bám vào một máy bay vận tải của Không lực Mỹ khi cất cánh trong nỗ lực tuyệt vọng nhằm chạy thoát khỏi Afghanistan sau khi quân Taliban chiếm được Kabul.

                      Theo Politico, một người đã tử vong khi mắc vào bộ phận hạ cánh của chiếc máy bay này.

                      Nhiều người khác trèo tường thép gai, dẫm đạp, chen chúc và tìm mọi cách trong tuyệt vọng để tìm cách trốn chạy khỏi đất nước sắp trở lại chế độ Hồi giáo cực đoan .





                      Đối với bà Phan Bình Minh, một cựu di dân Việt hiện đang sống tại Neuss, Đức, dù hoàn cảnh chính trị của hai cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Việt Nam khác nhau nhưng có sự tương đồng trong biến cố thất thủ ở Kabul và Sài Gòn.

                      “Nó giống nhau ở điểm là người ta cũng nhốn nháo tìm đường chạy trốn và cũng không biết đi đâu, người chạy ngược người chạy xuôi...

                      Những cảnh đó rất giống Việt Nam hồi trước,” bà Minh, người từng làm cho Việt Nam Thông Tấn Xã dưới thời Việt Nam Cộng hoà và chứng kiến những ngày Sài Gòn thất thủ cuối tháng 4/1975, cho biết.

                      - “ Nhìn cảnh Kabul mình đồng cảm với người Afghanistan vì chắc là họ cũng đang lo sợ và đau khổ ghê lắm.”

                      Việc Mỹ can thiệp vào Afghanistan bắt nguồn từ cuộc tấn công khủng bố trực tiếp trên lãnh thổ Hoa Kỳ ngày 11/9/2001 trong khi cuộc chiến tranh Việt Nam xuất phát từ việc Mỹ muốn ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa Cộng sản ở Việt Nam và châu Á.

                      Tổng thống Biden trong bài phát biểu tại Nhà Trắng hôm 16/8 nói rằng ông bảo vệ quyết định rút quân khỏi Afghanistan của mình trước nhiều chỉ trích về việc này.

                      Mặc dù thừa nhận rằng việc thất thủ của Kabul diễn ra nhanh hơn dự kiến nhưng người đứng đầu Nhà Trắng cho biết rằng ông [b]không muốn lặp lại sai lầm của việc tham gia vào một cuộc xung đột không biết kéo dài đến bao giờ mà không nằm trong lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ.

                      “Chúng tôi mong rằng chính phủ Hoa Kỳ không bỏ rơi những người đã giúp chính phủ Hoa Kỳ trong bao nhiêu năm nay,” ông Kỳ nói, khi bày tỏ ước muốn rằng những người tị nạn Afghanistan sẽ đến được bến bờ an toàn như gia đình ông sau khi rời Việt Nam.







                      Khoảng 2.000 người Afghanistan đã được đưa sang Mỹ trong các chuyến bay di tản từ Kabul từ tháng 7.

                      Theo New York Times, hơn 150.000 người Afghanistan, cùng gia đình, đã được định cư tại Mỹ với loại visa đặc biệt. Ước tính có hàng chục ngàn người Afghanistan đang cần được đưa ra khỏi nước này sau khi quân Mỹ rút đi.

                      Tổ chức PIVOT, có trụ sở ở California, kêu gọi chính quyền Biden không áp dụng bất cứ giới hạn nào về con số cho những người tị nạn chiến tranh Afghanistan và cho biết cộng đồng người Mỹ gốc Việt “đã chứng tỏ rằng người tị nạn chiến tranh khi được tái định cư tại xứ sở này có thể trở thành những công dân hữu dụng, cống hiến cho xã hội và văn hoá” của Hoa Kỳ.[b]

                      Sau chiến tranh Việt Nam, hàng trăm nghìn người Việt từng phục vụ cho chính phủ Hoa Kỳ bị đưa vào “trại cải tạo” trong khi hàng triệu người tìm cách vượt biên bằng đủ mọi cách, với nhiều người trong số họ bỏ mạng trên biển.

                      “Lịch sử có thể lặp lại,” PIVOT viết, nhưng cho rằng “chúng ta có bổn phận nhân đạo giúp người Afghanistan không phải trải qua một nghịch cảnh tương tự hay có thể còn tệ hơn” như đã từng xảy ra sau khi Sài Gòn thất thủ.

                      https://www.voatiengviet.com/a/khung...5/6005777.html

                      Comment


                      • Font Size
                        #41

                        Ở CUỐI HAI CON ĐƯỜNG


                        Một câu chuyện hoàn toàn có thật

                        Trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn.

                        Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.

                        Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Một nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ?

                        Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu.

                        Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình: Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang".

                        Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:

                        - Trong này có anh nào thuộc Sư 23?

                        Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:

                        - Thưa cán bộ, có tôi ạ.

                        - Anh ở trung đoàn mấy.

                        - Trung Đoàn 44.-

                        Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?

                        - Vâng, có ạ.

                        Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên :

                        - Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó.

                        Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:

                        - Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào?

                        - Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư 320.

                        Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục :


                        - Trận ấy đơn vị tôi thua nặng.
                        Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.

                        - Sau đó cán bộ được trao trả ? tôi hỏi.

                        - Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.

                        Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng xuống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghe mấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói :

                        - Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.

                        Mùa đông, không trồng trọt được,
                        nên khẩu phần ăn của một người tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.



                        Click image for larger version

Name:	lc3a0m-vie1bb87c.jpg?w=364.jpg
Views:	73
Size:	10.0 KB
ID:	61289


                        Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bằng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.

                        Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng :

                        - Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín , đừng để trên biết.Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.

                        Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luột sắn mà không ai phát hiện có khói.

                        Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh " chuẩn bị đi về ", anh em tức khắc dấu hết " tang vật " xuống một cái hố đã đào sẵn.

                        Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-

                        Không biết tối hôm ấy, trong giờ '' giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng ?

                        Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ :


                        - Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.

                        Vào một dịp Tết,
                        cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em :

                        - Lần bị thương năm 1972 ở Kontum,
                        tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện.

                        Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm.

                        Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương.

                        Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội.

                        Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình. Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi.

                        Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng,
                        không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.

                        Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.

                        - Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không ? - một anh tù hỏi.

                        - Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi.

                        Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi cho đến hôm nay.

                        Thời gian vàng son
                        của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.

                        Một buổi sáng sớm,
                        khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.


                        * * *


                        Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Nauy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi.

                        Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Nauy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều.

                        Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.

                        Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị " hạ tầng công tác " ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm .

                        Sau hai năm theo học,
                        tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ học. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.


                        Bẵng đi vài năm,
                        bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam.

                        Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên.

                        Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội.

                        Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi. Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.

                        Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy.

                        Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen cho biết bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.

                        Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.

                        Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ đến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thuở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh.

                        Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ :

                        " Ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn".

                        Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết.

                        Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.

                        Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.

                        Bỗng một hôm,
                        khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp lắm. Tôi bốc ống nghe. Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.

                        - Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ? Tôi hỏi.

                        - Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ.

                        Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:

                        - Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?

                        - Ông Thà, Nguyễn văn Thà, bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan ?

                        - Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.

                        - Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.

                        Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại.

                        Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những người đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.

                        Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.- Bây giờ cháu đang ở đâu ? Tôi hỏi.

                        - Cháu đang trốn ở nhà một người bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.

                        - Ba cháu bây giờ làm gì ?

                        - Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.

                        Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.

                        Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan,
                        anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau, anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesa lãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Nauy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.

                        Anh và tôi học tiếng Nauy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ.

                        Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.

                        Sáng hôm sau,
                        tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp.

                        Nhưng rồi cuối cùng,
                        tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.

                        Trước khi về lại Nauy,
                        tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.

                        Hơn một tháng sau,
                        Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng :

                        Hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.

                        "Các Anh thân quí ,


                        Khi ngồi viết nhừng dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi.

                        Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàn cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác :

                        -" Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại ".

                        Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

                        Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôi biết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.

                        Phần tôi ,
                        sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

                        Hơn ba năm nay,
                        tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại Ba Lan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

                        Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều :

                        Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."

                        Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu.

                        Nghe cháu Hà kể lại.
                        Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấp trong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì :

                        Xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ ?


                        Phạm Tín An Ninh

                        Comment


                        • Font Size
                          #42

                          TƯ CÁCH CỦA MỘT SỸ QUAN QUÂN Y THỦY QUÂN LỤC CHIẾN TRONG GÔNG CÙM VÀ CHẾT CHÓC CỦA TRẠI TÙ CẢI TẠO CỘNG SẢN


                          Sau vài lần tranh luận công khai với bọn quản giáo và cán bộ một cách khôn ngoan, Đại Uý Quân Y TQLC Nguyễn Văn Dõng đã khiến chúng hậm hực ra mặt và đặt Ông trong tầm ngắm (Đại Uý Nguyễn Văn Dõng sau này là một trong những vị đứng đầu chỉ huy trong vụ các Sỹ Quan QLVNCH nổi dậy ở Trại Tù Suối Maú năm 1978).

                          Chúng gửi một tên cán bộ cấp thành phố xuống “làm việc” với Ông.

                          Sau buổi “ làm việc ”, đến hồi kết :



                          ==========


                          TRÍCH TRONG HỒI KÝ NGỤC TÙ CỘNG SẢN VIỆT NAM :


                          Sau một lúc suy tư, tên cán bộ đặt tách trà xuống, châm thêm nhưng không uống, chậm rãi nói :

                          - Phần chính của buổi làm việc hôm nay chỉ có thế thôi. Nhưng trước khi ra về, tôi có hai câu muốn hỏi anh. Trả lời hay không hoàn toàn tuỳ ở anh vì hai câu hỏi nầy không thuộc vào buổi làm việc hôm nay. Tôi sẽ không ghi vào biên bản. Anh nghĩ sao ?

                          - Anh là cán bộ, tôi là cải tạo. Cán bộ cứ hỏi, cải tạo có bổn phận phải trả lời. Xin anh cứ tự nhiên.


                          Tuy ngoài miệng có vẻ rất ôn tồn điểm một chút xiên xỏ nhưng trong lòng tôi suy tính rất nhiều .

                          Tôi đoán là tên cán bộ này sẽ hỏi mắc hỏi rẻ về hành vi phản động của tôi trong mấy tháng vừa qua, hay ít ra hắn cũng tìm cách đào sâu tư tưởng của tôi trước khi sử dụng tôi.

                          Đặc tính của CS là đa nghi, phương châm của CS trong việc dùng người là “hồng hơn chuyên”.


                          - Câu thứ nhứt tôi muốn hỏi anh là ngày 30 tháng 4, khi quân đội nhân dân tiến vào Sài Gòn anh có sợ không ?

                          Anh ta đặt câu hỏi nửa như nghiêm trang lạnh lùng, nửa như chế diễu mỉa mai nhưng rõ ràng là xấc xược, thách thức.

                          Khi câu hỏi vừa dứt, tôi chợt nghe như có một luồng điện từ dưới chân chạy nhanh lên đỉnh đầu !


                          Tôi nghe người như cứ từ từ nóng ran lên.

                          Còn đang lịm người chưa biết phải đối đáp ra sao, tôi nghiêng đầu nhìn lên tường phía trái như để tìm ý, lại thấy tên già dịch được lộng kiếng vẫn đang tinh quái nhìn tôi mỉm cười !

                          Giây phút đó trong phòng chỉ có 2 người ở 2 chiến tuyến đang đối diện nhau, một cán bộ CSBV và một sĩ quan miền Nam tự do.

                          Mặc dù đang là thân phận của một tên tù chiến bại nhưng không vì thế mà tôi chịu để cho ai muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm.




                          Click image for larger version  Name:	786c46593144883a4927bdb22c2b4814.jpg Views:	1 Size:	79.8 KB ID:	61863


                          Trong khoảnh khắc
                          tôi vụt nhận rõ tất cả trách nhiệm nặng nề mà tên cán bộ, vô tình hay hữu ý, vừa đặt lên vai tôi. Tôi phải đối đáp như thế nào để vừa bảo vệ cái tiết khí của dân Nam, của một trí thức, và đặc biệt là của một sĩ quan TQLC, vừa trả lại gáo nước lạnh vào mặt tên cán bộ CS mà không sơ hở để hắn có lý do làm tình làm tội tôi.

                          Tôi dư hiểu cái hoàn cảnh tế nhị này từ sau lần tôi tố giác đám hậu cần với phái đoàn thanh tra làm cho chúng bị khó dễ. Rồi sau đó tôi lại còn dấy lên một luồng khí thế mới trong trại mà toàn bộ các chính uỷ đã không làm gì được trong mưu toan bắt chẹt tôi.

                          Từ ngày đó, ban chỉ huy trại đã bố trí theo dõi tôi rất chặt chẽ, chính tên quản giáo Trung đã báo cho tôi biết nhiều lần để giữ mình.

                          Tôi nghĩ là do cái “quá trình” đó mà hôm nay tôi mới phải chịu cuộc thử thách nặng nề, khó khăn và có thể nguy hiểm cho tôi.

                          Nhưng nghĩ cho cùng thì cũng chẳng có gì gọi là thử thách hay nguy hiểm, tôi chỉ cần xác nhận là tôi sợ, rất sợ nếu cần, và hết lời ca ngợi Cách Mạng tận mây xanh thì mọi việc đâu sẽ vào đó.

                          Cái khốn khổ của tôi là khi cha mẹ sinh tôi ra, cột sống lưng không được mềm dẻo ! Vì thế nên trong giây phút rất căng nầy, trong đầu của tôi chỉ có một việc phải làm, nên làm, làm cho tên cán bộ CSBV hiểu rằng dân Nam xứng danh với tiền nhân, chứ không phải một lũ Nguỵ hèn hạ như một thiểu số mà hắn được biết.

                          Còn việc được xuất trại, được thả tuy là giấc mơ của tất cả tù nhân trên địa cầu thì …mặc nhiên không còn là điều quan trọng đối với tôi nữa.





                          Trong giây phút ngắn ngủi mà bao nhiêu việc, bao nhiêu suy tính đã vụt qua trí óc tôi. Giờ thì phải trả lời cho tên cán bộ, hắn ta đang kiên nhẫn chờ đợi với vẻ hiu hiu tự đắc của kẻ được thời.

                          Trong lúc phân vân bối rối tôi như một cái máy ngả người ra sau tựa lưng vào ghế, hai chân gác luôn lên bàn tự nhiên như … Mỹ, chẳng hề một chút quan tâm đến người đối diện, hắn giật mình kinh ngạc ! Cuối cùng rồi tôi cũng phải mở lời :

                          - Anh vừa đặt một câu hỏi rất tầm thường nhưng lại làm tôi bối rối chẳng biết phải trả lời sao cho phải.

                          Lý do là ngôn ngữ giữa Nam và Bắc bây giờ hoàn toàn không đồng nghĩa với nhau. Tôi đã từng bị nhiều điều ngộ nhận, hiểu lầm nói thế cho nó rõ. Vậy trước khi trả lời anh, tôi xin anh định nghĩa tức là nói rõ ý của anh thế nào là sợ.

                          Không ngờ bị hỏi ngược, tên cán bộ đâm ra bối rối ! Mà hắn ta bối rối cũng có thể vì không biết định nghĩa chữ sợ, mà cũng có thể không đoán được ý đồ của tôi. Hai bàn tay hắn ta làm nhiều cử động như để phân trần trong lúc lời nói chưa đến kịp. Cuối cùng hắn ta ấp úng giải thích :

                          - Tôi nghĩ rằng sợ là sợ hãi, là kinh sợ, là … sợ thế thôi, có gì đặc biệt đâu.

                          Nhận thấy đối phương thật sự lúng túng trình độ chẳng có là bao, tôi cười thầm. Thật ra khi yêu cầu hắn ta định nghĩa, tôi chỉ kéo dài thời gian để mong cấp thời tìm ra giải đáp đúng ý, chính cái bối rối của đối phương đã gợi ý cho tôi. Vẫn giữ nguyên thế ngồi kiểu Mỹ, tôi từ tốn đỡ lời hắn :

                          - Tôi xin mạn phép được định nghĩa chữ sợ để tránh mọi sự hiểu lầm mà thường khi tôi vẫn phải chịu phần thua thiệt. Thưa anh, người trong Nam dùng chữ sợ trong nhiều trường hợp khác nhau . Chúng tôi nói :

                          - " Kính sợ Trời Phật, kính sợ Thánh Thần, nhưng kinh sợ loài yêu ma gian ác, lo sợ cho tương lai vô định …"

                          Đột nhiên tên cán bộ cắt ngang lời tôi, giọng của hắn không còn được bình tĩnh nữa làm tôi chợt nhận ra mình đang trên một đà dốc nguy hiểm.

                          - Thôi, anh nói thế đủ rồi. Giờ thì xin anh hãy trả lời câu hỏi của tôi đi.

                          Nghe giọng nhát gừng của hắn,tôi ngửi thấy bầu không khí đã thay đổi. Tôi ngồi lại ngay ngắn, nhìn thẳng vào mắt hắn ta và với một giọng nghiêm trang chậm rãi:

                          - Dù có định nghĩa chữ sợ của anh như thế nào đi nữa, tôi cũng chỉ có một câu trả lời cho câu hỏi của anh. Xin được nhắc lại với anh rằng tôi là :

                          - Một người Công Giáo, một sĩ quan TQLC mà các anh gọi là Lính Thuỷ Đánh Bộ. Đã gần 40 năm sống trong trời đất, ngoài Thiên Chúa mà tôi tôn thờ và lương tâm của tôi ra, tôi không hề biết sợ gì và sợ ai hết.Và cho đến giờ phút nầy cũng chưa ai có khả năng làm cho tôi sợ cả .

                          Sau lời nói của tôi là một sự im lặng hết sức nặng nề. Tôi điềm nhiên ngồi tựa lưng vào ghế nhìn đối phương, chờ đợi. Sắc diện của hắn như tái đi, nét mặt nghiêm nghị đến lạnh lùng.

                          Cái vẻ hiu hiu tự đắc của kẻ được thời được thế phút chốc không còn thấy đâu nữa. Hắn ngồi yên giây lát rồi nhỏm dậy cầm lấy cây viết Bic ghi mấy hàng vào tờ biên bản.

                          Tôi nhìn thấy nhưng không có phản ứng, để hạ hồi phân giải, chỉ nhìn lên trần nhà suy nghĩ đến hậu quả của lời nói vừa thốt ra.




                          Click image for larger version  Name:	nguho-tuongvnch.jpg Views:	1 Size:	96.6 KB ID:	61864



                          Tiếng cây viết Bic được buông rơi xuống bàn làm tôi giựt mình và nhìn thấy tên cán bộ đang hướng về phía tôi :

                          - Còn câu thứ hai cũng xin hỏi anh nốt.

                          Tôi nhỏ nhẹ hơn nhưng cũng không kém phần xỏ lá.

                          - Xin anh cứ tự nhiên nếu anh không thấy gì trở ngại.

                          Hắn có vẻ khó chịu nhưng làm ngơ và hỏi tôi :

                          - Anh nghĩ gì về thành quả của Cách Mạng tại miền Nam?

                          Tôi mỉm cười thở phào nhẹ nhõm, câu hỏi này ít ra cũng ngây ngô vô tội vạ. Tuy vậy tôi cũng “ hạ quyết tâm” không bỏ lỡ cơ hội làm cho tên cán bộ cấp cao này hiểu rằng :

                          - Ngoài chính sách ma giáo và bạo lực dã man, hắn và đồng bọn không phải là đối thủ của Nguỵ về các mặt khác.

                          - Thưa anh, câu hỏi nầy đúng ra tôi chưa có thể trả lời cho anh được. Lý do là :

                          - Các anh chỉ vừa thực hiện được giai đoạn cướp đất giành dân. Thời gian còn quá ngắn chưa cho phép bàn đến các thành quả của Cách Mạng.

                          Nhưng dù sao đi nữa, anh đã hỏi thì tôi cũng xin thưa với anh là riêng tôi, tôi nghĩ rằng :

                          - Chỉ trong một thời gian ngắn thôi, Cách Mạng sẽ đưa sẽ đưa miền Nam nầy ngang hàng với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vì đó chính là mục tiêu của Đảng .

                          Tôi đã đáp thật ngắn gọn, thật rõ ràng mà cũng thật là mập mờ ! Tôi nghĩ tên cán bộ cũng có được một chút thông minh để hiểu ý tôi muốn nói Cách Mạng sẽ đưa miền Nam nầy xuống ngang hàng với miền Bắc xhcn, tức là lột trần mọi người để biến toàn dân thành vô sản, trừ giai cấp lãnh đạo.


                          Trong hình : Đại Uý Nguyễn Văn Dõng cùng vợ và các con tại Bệnh Viện Lê Hữu Sanh năm 1972.


                          Click image for larger version  Name:	242450152_853239128897705_8370575019213214344_n.jpg?_nc_cat=100&ccb=1-5&_nc_sid=825194&_nc_ohc=InonflGR7lIAX8XWhH5&_nc_ht=scontent.fykz1-1.fna&oh=bfe1ef87a2d426cdb7bbc36cb9817110&oe=616D1A0D.jpg Views:	1 Size:	98.9 KB ID:	61866


                          Sưu tầm

                          Attached Files

                          Comment


                          • Font Size
                            #43

                            GIAO THỪA Ở SUỐI MÁU


                            Vào cuối năm 1975 , hàng ngàn tù nhân sĩ quan cấp tá của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa từ nhiều trại tập trung cải tạo vùng chung quanh Sài-Gòn đã bị chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Hòa.

                            Một đêm giữa tháng 10, 1975, từ Long Giao, tôi bị chuyển tới đây trên một chiếc Molotova bít bùng kín mít. Tôi bị dẫn vào khu K2. Hai tuần sau có lệnh “biên chế,” tôi lại bị chuyển sang khu K3. K3 chỉ chứa sĩ quan cấp thiếu tá.

                            Tôi bị giam ở đây từ ngày 1 tháng 11, 1975 cho tới ngày lên tàu Sông Hương ra Bắc (tháng 7, 1976.)



                            Click image for larger version  Name:	giao-thua-o-suoi-mau.jpg Views:	5 Size:	52.5 KB ID:	62154



                            Thời gian này, tin tức truyền thanh, truyền hình về tình hình thế giới càng lúc càng xấu đi. Người ta đồn rằng, hình như Cộng-Sản Việt-Nam đang trên đường tiến chiếm Thái-Lan. Thế Giới Tự Do như càng lúc càng xa chúng tôi hơn.

                            Anh em chúng tôi gặp nhau thường ngày, tụ tập từng nhóm, đánh cờ tướng, tán gẫu, bàn chuyện nhà cửa, gia đình, nước non, thời quá khứ. Trong những lúc tụ tập chuyện trò, chúng tôi nghe bạn bè rỉ tai rằng :

                            - “ Chính quyền Giải Phóng ” đang nghiên cứu hồ sơ cá nhân của từng người, để xét tha (?) Cũng có tin bi quan, cho rằng chúng tôi sắp bị đưa ra Tòa án Nhân dân để xử tội. Chúng tôi thực sự hoang mang, chẳng biết tương lai mình sẽ đi về đâu.

                            Tôi ở Lán 24 thuộc K3 (danh từ VC gọi Lán là nhà, K là Khối.)

                            Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân, trong Lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Ðà Lạt gồm anh :

                            - Trần Ngọc Dương (K10)

                            - Nguyễn Lành (K16)

                            - Hoàng Thế Bình (K18)

                            - Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20 có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long).

                            Lán tôi cách Lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Ðộng Quân K20 Võ Bị là :

                            - Nguyễn Cảnh Nguyên

                            - Trịnh Trân, và Quách Thưởng.

                            Trong cảnh đói khát thường xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau dền, tán đường thẻ, miếng cơm cháy.

                            Lán 24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi nhặng, vì nó nằm trên đường đi ra cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù nhân cải tạo ở đây hầu như bất trị.

                            Anh trưởng Lán 24 tên Trần Thành Trai, nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm việc tại Quân y viện Duy-Tân, Ðà-Nẵng . Bác sĩ Trai luôn luôn xác định lập trường của anh là quyết tâm “ học tập tốt ” để được tha về với vợ con, vì vậy mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa xuống, anh luôn luôn tìm cách thi hành đúng đắn.

                            Thằng Niếu, bạn tôi, được một chân làm bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần cơm của nó dư, được mang về tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh, người nằm cạnh tôi.

                            Vào những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những người liên lạc được với gia đình thì có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn Tết, những kẻ ít may mắn hơn thì đành trông chờ vào những gì ban chỉ huy trại ban cho. Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ để trình diễn đêm Giao Thừa.

                            Ðể khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi tình nguyện làm công tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay.

                            Hai ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp đi làm cỏ ngoài rào K3.

                            Trại Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng Tam-Hiệp của Quân Khu 3 Việt-Nam Cộng-Hòa.

                            Trại có hai khu, hai hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù, rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào mìn phòng thủ. Trại tù Phiến Cộng này có 6 khối. Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng đất trống, có rào mìn. Từ khối này muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét lên mới nghe tiếng nhau.

                            Ra khỏi hàng rào thứ nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.

                            Cái miếu thờ Thổ Ðịa trở thành cái chuồng nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Ðường của trại tù binh đã thành chuồng gà sản xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này, chắc cũng đi tù đâu đây không xa !

                            Ngoài xa, bên kia hàng rào mìn là bãi cỏ trống rồi tới đường Quốc lộ 1.

                            Trên Quốc lộ , xe Lamb chạy xuôi ngược; người người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng trại tù, đôi người dân có liên hệ, hoặc ai đó còn nhớ tới chúng tôi, những sĩ quan cấp tá của Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, những người bảo vệ chế độ đến giờ cuối cùng, và những người chậm chân, chạy không kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù do chính tay Công-Binh Việt-Nam Cộng-Hòa xây dựng lên trước đó nhiều năm.

                            Sáng nay bầu trời màu xanh, không một gợn mây. Từ hướng phi trường Biên-Hòa, bên kia cánh đồng trồng khoai mì, những chiếc F5 thực tập lên, xuống, lượn vòng…

                            Ðưa tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên trời cao, anh bạn Thiếu tá Không Quân, Trần Chiêu Quân nói với tôi rằng :

                            - Sau 30 tháng 4, có một số phi công của Việt-Nam Cộng-Hòa bị trưng dụng để huấn luyện cho phi công Bắc-Việt lái những máy bay chúng ta còn để lại.

                            Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm hồn người cựu chiến binh nao nao.

                            Làm sao quên được ?

                            Lần đầu ra trận (Tháng 2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân, đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà-Kiệu (Quảng-Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi ngồi bên bờ Nam sông Thu-Bồn, say sưa nhìn những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của Trung Ðoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn cuộn…

                            Rồi tới trận Mậu- Thân (1968) với những chiếc Skyraider dềnh dàng, chậm rãi phóng từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi đạo Cam-Ly, Ðà-Lạt. Khi bom chạm mục tiêu, từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng xanh, trông giống như những cái vòi bạch tuộc, vươn cao…

                            Còn nữa…

                            Nhớ thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen tiếng L19 lè xè của Võ Ý (K17VB). Chiếc L19 như cánh diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh Chư Gô, hay trên Ia Drang, thung lũng Tử Thần…

                            Chúng tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên ngọn cột cờ căn cứ.

                            Cơ phi, xạ thủ trên tàu chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài thùng điện trì, đạn, gạo sấy, con tàu đã lật bụng đảo một vòng, thoát chạy về Ðông. Phòng không như lưới, thảy xuống cho nhau được thùng nào, hay thùng nấy ! Thảy đồ xong là chạy. Ðồ tiếp tế, có thùng còn nguyên dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào bãi mìn. Như thế cũng quý hóa lắm rồi ! Cám ơn anh em Phi đoàn 229 Lạc Long !







                            Rồi đêm xuống, cứ như

                            - “ Ðúng hẹn lại lên !” Chiếc AC 47 của anh Trần Bạch Thanh (K17) đã có mặt trên vùng.

                            “Thái Sơn ! Ðây Hỏa Long gọi!”

                            Những đóm hỏa châu lập lòe, vừa trải rộng tầm quan sát cho người trấn giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm thấy ấm lòng.

                            Ðã mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ này tôi đang đứng nhìn những cánh chim sắt chao lượn trên đầu, người lái không phải là quân bạn.

                            Tiếng động cơ F5 nghe sao quá xót xa !


                            o O o


                            Tôi đang nhổ cỏ thì thấy một đoàn người từ hướng ban chỉ huy trại hò nhau khiêng một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong.

                            Tấm bảng nền đỏ chữ vàng :

                            - “ Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do ”
                            được nâng niu như trứng trên vai những người tù nhễ nhại mồ hôi. Những người tù đang bị sức nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước.

                            Mới vài tháng trước đây họ còn là những vị chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm, chiều tối mới trở về trại. Họ dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn phết những khẩu hiệu trên tường. Họ trồng lại hàng rào trại.

                            Mọi việc làm này là để chào đón ngày Quốc-Hội Việt-Nam Thống-Nhất ra đời. Những vị sĩ quan cao cấp này đã khởi đầu nghề thợ mộc của họ bằng những cái bảng :

                            - “ Không Có Gì Quý…” ở trại tù Tam-Hiệp.

                            Tôi có quen vài người trong số những cải tạo viên” hằng ngày xuất trại làm mộc, như vị sĩ quan cựu Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa và vị sĩ quan cựu Tiểu Ðoàn Phó Nhảy Dù. Cả hai vị đó, sau này nơi đất Bắc, đã thành hai ông đội trưởng nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh!

                            Chỉ chín tháng sau ngày chế độ Cộng-Hòa sụp đổ, giờ đây tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh không ai có thể tưởng tượng nổi: Trên trời, phi công Việt-Cộng đang lái F5; trước cổng trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Hòa đang dựng cổng chào; quanh rào trại tù, sĩ quan cấp tá Việt-Nam Cộng-Hòa đang làm cỏ. Nơi nơi, người người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người mang một tâm sự riêng…

                            Tới trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà bếp, chúng tôi được dẫn trở lại trong vòng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một bên là Thiếu tá Trần Ðạo Hàm, cựu vô địch nhảy cao của Quân Ðội Việt-Nam Cộng-Hòa, bên kia là một tay Thiếu tá Không Quân.

                            Anh Lê Hữu Khái (K15) và thằng bạn Nguyễn Bích (K20) của tôi đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm vì anh Hàm là “gà nhà”, Võ Bị khóa 17! Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ tay, bình luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên anh có vẻ như đang dẫn điểm.

                            Tôi thấy nhiều người đã để ghế “ xí ” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài-Gòn Giải-Phóng. Ai chậm chân thì không còn chỗ tốt.

                            Thời gian này TV Sài-Gòn Giải-Phóng liên tiếp chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây Số”“Ðại úy Ðen” của Ba-Lan.

                            Trong các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau bằng những con bài. Xì phé, sập xám và mạt chược là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong trại. Tôi đã chứng kiến nhiều anh thua bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đình gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào, thuốc tây để trừ nợ.

                            Sau Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau lòng ở K3 năm ấy :

                            Có một vị Thiếu tá Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm đôi để chi cho chủ nợ một nửa, thì phát hiện ra một bức thư “chui” của người nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư vắn tắt đôi lời làm đau lòng người đọc :

                            “ Chị ấy đã gởi hai đứa con của anh cho bà nội của chúng nuôi. Chị đã đi lấy chồng rồi ! Anh đừng buồn, ráng học tập lao động cho tiến bộ để sớm được thả về mà nuôi dạy con anh.”

                            Cái tin bất ngờ sét đánh ấy đã làm cho ông Quận sững sờ, buông rơi những con bài Cơ, Rô, Chuồn, Bích…

                            Từ đấy, tôi thấy ông suốt ngày thẫn thờ bên rào, nhìn về phía xa xôi. Ðôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây Guitar, đàn solo những bài nhạc xưa, buồn đứt ruột.

                            Tôi bồi hồi nhớ lại lời Tổng thống nói ngày nào :

                            “ Ðất nước còn, còn tất cả. Ðất nước mất, mất tất cả !”

                            Ôi ! Lời Tổng thống nói thật là hữu lý !

                            Tổng thống ơi! Chúng tôi đã cố gắng hết sức mình để giữ nước, nhưng chúng tôi đã không thể giữ nổi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ vô cùng! Sao Tổng thống không ở lại giữ nước với chúng tôi? Lúc này chúng tôi đã “mất tất cả” rồi Tổng thống ơi!


                            Còn tiếp ,

                            Comment


                            • Font Size
                              #44
                              Về tới lán, tôi nhận được một vỉ thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười cục đường tán do anh bạn Phan Văn Hải gởi cho.

                              Tôi, Phan Văn Hải, cùng ba anh bạn khóa 20 Võ Bị là Phan Ðộ, Huỳnh Bá An, Trần Hữu Bảo, xuất thân từ trường Nam Tiểu Học Ðà-Nẵng. Chúng tôi là học trò của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp Nhất C.

                              Phan Văn Hải là sĩ quan khóa Ðặc biệt Thủ Ðức, anh về phục vụ cùng đơn vị Biệt Ðộng Quân của tôi ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc chiến, Thiếu tá Phan Văn Hải giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 89 Biệt Ðộng Quân. Khi đi tù, bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung túc.

                              Chiều hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân Thiếu tá Bùi Tiết Quý thâu tiền của trại viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm mì gói, tương, chao, xì dầu và đường tán để ăn bồi bổ thêm trong ba ngày Tết.

                              Tối đến, sau khi đã chia hết phần đường cho người mua, anh Quý cạo được một chén đường chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường mót được với hột su su và mấy hạt bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội phó hậu cần cũng có chút bổng lộc !

                              Sáng Ba Mươi Tết , lại gặp ngày tổ tôi trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ định xuống làm việc tăng cường cho Lán 9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng trong bao viền chỉ xanh rất cũ được chuyển về từ bưng biền. Gạo thì mốc vàng, mốc xanh .

                              Những tổ sâu gạo to như nắm tay. Khi tôi tách những cái tổ sâu ra từng phần nhỏ thì những con sâu gạo trắng ngần có khoang, béo núc, to gần bằng đầu đũa và dài cả phân, ngo ngoe, ngo ngoe…

                              Anh Cung không cho phép tôi vứt bỏ những cái tổ sâu ấy, anh nói rằng :

                              - " Nếu vứt bỏ sâu đi thì hết gạo , “Nếu vứt sâu đi thì còn cái gì mà ăn ? Cứ nấu tưới đi ! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều Prồ-tê-in, sâu gạo chứ có phải là dòi ở ngoài chuồng xí đâu mà ngán !”

                              Khi chảo cơm bắt đầu sôi thì nhiều khách khất thực nước cơm đã cầm ca đứng đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ chối đôi người. Người có phần, thì riu ríu cám ơn, người không có phần tiu nghỉu ra về, miệng lầm bầm : “Ð! M!… Ð!M!..”

                              Những trại viên nhà bếp gọi đám người chờ xin nước cơm là :

                              - “ Ðội quân cầm ca . ” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông bộ binh ấy mà !

                              Dân “cầm ca” phải đứng xếp hàng cả giờ đồng hồ trước cửa lò cơm để chờ xin một ly nước cơm. Nước cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thủng (?) Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả.

                              Sau này, khi ở trại tù Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên, tôi có đọc một tài liệu nói về cái chất độc của nấm cúc vàng từ gạo mục, gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan.

                              Nước cơm lại là phần đậm đặc nhất của chất độc nấm cúc vàng từ gạo mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân “cầm ca” ngày ấy ?

                              Chiều Ba Mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho. Thằng Niếu đem thêm về cả phần lòng heo bồi dưỡng nhà bếp của nó.

                              Thời buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan, những tay ghiền miền Nam bắt đầu nói chuyện thuốc lào .

                              Những danh từ :

                              - “ Điếu cày,” “điếu bát,” “Cái Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lãng” nghe mãi cũng quen tai.

                              Anh Hoàng Kim Thanh, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân của tôi, từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được một bao thuốc lá 555 và một lạng cà phê.

                              Trong khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng Tất Niên thì tôi đi vòng vòng tán dóc với anh bạn Lưu Văn Ngọc, cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Ðoàn II.


                              o O o


                              Tối Ba Mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí thật là rộn rã tưng bừng. Mọi lán đều đã chuẩn bị sẵn sàng chương trình văn nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ được thiết lập giữa sân tập họp. Ðèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận Giải- Phóng Miền- Nam che kín cả sân khấu.

                              Trước giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi những bản nhạc từ đài Sài- Gòn Giải- Phóng mà Tô Lan Phương là giọng ca chính. Những nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất để sẵn sàng trình diễn giúp vui. Ðàn ghi-ta, trống, sáo đều làm bằng vật liệu lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt, cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ.

                              Tám giờ tối, buổi “Liên hoan văn nghệ” đêm Ba Mươi Tết bắt đầu.

                              Mở màn chương trình là bài đồng ca “Như có Bác” tôi không nhớ do lán nào trình diễn.

                              Kế tiếp,
                              cựu Thiếu tá Không Quân Hoàng Ðình Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay của “ đồng bọn ” tù Võ Bị.

                              Anh vừa hát được nửa bài tình ca, nhạc vàng “Mùa Xuân Trên Ðỉnh Bình Yên thì bị cán bộ Cộng-Sản chặn lại, đuổi xuống đài.

                              Lý do : “Nhạc Ngụy ủy mị!”





                              Sau đó, chỉ những bài hát “Giải Phóng” mới được phép trình diễn.

                              Trên sân khấu, tiếng sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành Phố HCM” hòa ca cùng tiếng sáo miệng của Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi cũng nghe vọng lại từ các khu khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như :

                              - “Cô Gái Vót Chông,” “Tiếng Ðàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên Chiếc Xe Tăng” vân vân…

                              Khắp 6 khu của trại tù đều sáng rực ánh đèn và vang rền tiếng nhạc…

                              Năm mới đang từ từ tiến về…

                              Ðến khi màn trình diễn của Lán 24 vừa được giới thiệu, thì tôi bỏ chạy về lán. Tôi ngồi một mình trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi đau đớn nhói tim tôi !

                              Ngoài kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện, đang phải đóng vai :

                              “Dân quân chống Tầu, chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong một vở trường kịch. Khi họ tập bài bản trong lán, tôi biết họ cũng đau lòng lắm.

                              Bạn Võ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy vì là Tây lai phải đóng giả làm Tây cho người ta trói.

                              Thằng Niếu phải đóng vai “Biệt Ðộng Quân Ngụy” giơ tay đầu hàng để anh Dương người Bắc, đóng vai bô lão nông dân Việt Nam “đả đảo”.

                              Mỗi lần tập xong, các bạn tôi đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng Trần Thành Trai cho tập một kịch bản lịch sử :

                              - “ Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng anh lán trưởng không đồng ý.

                              Anh Trai nói :

                              “Ban chỉ huy trại đã ra lệnh” cho anh phải thực hiện cho được trường kịch này để mừng Giao Thừa, vì nó có tính cách “Lô gích lịch sử” (?)

                              Và đêm ấy, anh đội trưởng Trần Thành Trai đã thực hiện thành công xuất sắc vở trường kịch :

                              - “Việt Nam 4000 năm anh hùng.”

                              Ngay sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng Xuân Bính Thìn, mùa Xuân đầu tiên của nước “Việt Nam Thống Nhất” cũng là mùa Xuân đầu tiên quân và dân Miền Nam mất nước, anh đội trưởng Trần Thành Trai đã được ban chỉ huy trại “tuyên dương công lao” trước trại.

                              Khi trên sân khấu người diễn kịch bắt đầu hát bài “Tiến Quân Ca” thì tôi bật khóc.

                              Một mình, ngồi trong đêm tối, tôi nức nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc lại có hiệu lực chữa đau đớn hiệu nghiệm như đêm ấy!

                              Chợt tôi nghe tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rồi tiếng lên đạn súng AK…

                              Thình lình, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi chói lóa.

                              “Anh kia ! làm gì ngồi khóc đấy? Sao không đi “rự nễ” mừng Xuân?”

                              Tên bộ đội đi tuần tra lớn tiếng hỏi.

                              Tôi lấy tay che mắt, nhưng không nhìn thấy gì. Tôi lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp :

                              “Anh có mồm không thì bảo ? Câm à ? Sao không giả nhời tôi ?”

                              Tôi vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một vòng quanh vách lán rồi tắt. Căn phòng tối om. Tôi nghe tiếng chửi :

                              “Ðịt mẹ thằng câm ! Mới xa nhà có mấy tháng mà đã nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’ rồi mà ông có khóc đâu ! Ðồ không biết xấu hổ !”

                              Tôi vẫn lặng thinh.

                              “ Rầm !” Tên bộ đội giận dữ, đóng sập cửa lán.

                              “ Chảng !” Nó còn bồi thêm một cái đá cật lực vào vách tôle.

                              Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước đi xa dần về hướng sân. Tôi nhìn đồng hồ tay (ngày đó chưa có lệnh thu giữ tư trang của tù) đúng lúc này hai cái kim lân tinh vừa chập nhau trên số 12 :

                              Giao Thừa !



                              Click image for larger version  Name:	81TcDZ.jpg Views:	3 Size:	48.2 KB ID:	62309



                              Ngoài sân tiếng ca hát còn đang tiếp tục. Tôi mồi một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, hình ảnh những Giao Thừa đã qua trong đời hiện về, mờ nhạt như từ thế giới nào rất xa…

                              Ngày xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi đang đi hành quân với một toán Biên Vụ (Viễn Thám) quân số chỉ có 6 người, lần mò trên những nhánh của hệ thống “Ðường mòn Hồ Chí Minh” trên đất Lào, hoặc len lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang chỉ huy cả năm trăm, sáu trăm quân trấn giữ Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên nghe chương trình Giao Thừa của Ðài Phát Thanh Quân-Ðội.

                              Giao Thừa Xuân Bính-Thìn là Giao Thừa đầu tiên trong đời, tôi không tìm thấy lá cờ nước tôi, không nghe được câu hát :

                              - “ Này công dân ơi ! Ðứng lên đáp lời sông núi… ”


                              Bài quốc ca này đã đi vào lịch sử. Một thế hệ đã hát nó với cả bầu máu nóng trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu bạn bè của tôi đã cống hiến tuổi trẻ và cả thân xác mình cho bài ca đó.

                              - Một thế hệ đã lớn lên thành người với bài ca đó.

                              - Một thế hệ sẽ mang nó theo, xuống tuyền đài…

                              Chợt tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng lại trên loa phóng thanh :

                              “ Ðổi đời đã tới ! Cách Mạng đã thành công !”

                              Tiếng hô lặp lại hai chữ “Thành công !” của trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi cảm thấy tiếng hoan hô đã làm rung những tấm tôle trên mái.

                              Trời đêm Trừ Tịch tối đen.

                              Tôi không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè, là bóng những bụi rau dền, giàn mùng tơi hay những hồn ma đói cuối năm chập chờn.

                              Ngoài xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu hát bài “Lá Ðỏ”…


                              o O o


                              Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu tá Trần Thành Trai của quân y viện Duy-Tân, Ðà-Nẵng, đã được tha khỏi trại cải tạo.

                              - Bác sĩ Trai đã cùng Bác sĩ Trần Ðông A, cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài-Gòn.

                              Tôi cũng đã nghe tin, giờ này, Bác sĩ Trai đang là một :

                              - “ Dân biểu ” của Quốc Hội nước Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ Nghĩa Việt-Nam.

                              Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Võ-Bị, cựu tù Lán 24 Suối Máu, Tam- Hiệp, Biên- Hòa.

                              Trong số những người bạn đó, thì hai người đã qua đời, là Hoàng Thế Bình và Ngô Văn Niếu. Còn những bạn khác như Dương, Lành, và Huy thì đang ở Mỹ, không rõ họ có còn nhớ chuyện ngày xưa hay không?

                              Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đã trở thành không thể nào quên, vì đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!!

                              VML – K20 – Lập Xuân 2005

                              Vương Mộng Long

                              https://phanba.wordpress.com

                              Comment


                              • Font Size
                                #45
                                NHÌN LẠI CỐ HƯƠNG

                                https://www.youtube.com/watch?v=cHJmQwSRv10



                                Video nầy chẳng có những hình ảnh bạo động không hiểu sao youtube lại giới hạn tuổi vào xem ? Chỉ ghi lại những hình ảnh chiến đấu kiên cường , những tấm gương hi sinh cua quân lực VNCH " Tướng chết theo thành , Thà chết chứ không hàng giặc " .

                                Hình ảnh người dân miền Nam lếch thếch , bỏ nhà , bỏ của chạy theo lính VNCH . Thật khó hiểu quá !

                                Comment

                                Working...
                                X