Announcement

Collapse
No announcement yet.

Trận Cửa Việt trước và sau Hiệp Định Paris 1973

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Trận Cửa Việt trước và sau Hiệp Định Paris 1973

    Click image for larger version

Name:	tqlc-va-thiet-giap-tai-mat-tran-quang-tri-nam-1972.jpg?w=673.jpg
Views:	542
Size:	31.6 KB
ID:	29253
    Tiểu đoàn 1, 6 TQLC và thiết đoàn 20 kịch chiến với với CQ tại căn cứ Phượng Hoàng

    Trận Cửa Việt tuy không phải là một trận đánh lớn cỡ các trận Quảng Trị, An Lộc, Kon Tum… trong Chiến Tranh Việt Nam nhưng lại là một trận đánh có tính cột mốc (milestone), bởi vì nó diễn ra ngay trước và sau khi Hiệp Định Paris 1973 về ngưng bắn tại chỗ và tái lập hòa bình tại Việt Nam.

    Trong khi Hiệp Định Paris được ký kết và có hiệu lực vào ngày 28 Tháng Giêng, 1973, thì trận Cửa Việt diễn ra từ ngày 25 đến ngày 31 Tháng Giêng, 1973, tại Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt ở phía Đông-Bắc tỉnh Quảng Trị. Trận đánh này có sự tham dự của một đội đặc nhiệm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), gồm hai lực lượng Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp, nhằm lấy lại Căn Cứ Cửa Việt, từng bị Cộng Quân chiếm đóng từ những ngày đầu của Mùa Hè Đỏ Lửa, ngay trước khi Hiệp Định Paris bắt đầu có hiệu lực.

    Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt có địa thế trải dài dọc bờ biển, nằm ở tả ngạn sông Thạch Hãn, phía Đông giáp Biển Đông, phía Nam giáp quận Triệu Phong qua Sông Hiếu, phía Bắc giáp xã Gio Hải, và phía Tây giáp các xã Gio Việt và Gio Mai. Cửa Việt nằm cách Đông Hà 15 km về hướng Đông-Bắc, cách Gio Linh 10 km về hướng Đông, và cách Cửa Tùng 15 km về hướng Nam.

    Diễn tiến trận Cửa Việt

    Trận Cửa Việt kéo dài từ ngày 25 Tháng Giêng cho đến ngày 31 Tháng Giêng, 1973, và diễn tiến qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1: Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp VNCH thành công tái chiếm Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt; và Giai Đoạn 2: Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp rút khỏi Cửa Việt trước áp lực mạnh mẽ của pháo binh và quân bộ chiến Cộng Sản.

    -Giai đoạn 1:

    Cuộc hành quân của Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango VNCH, với các Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên, Tiểu Đoàn 4 Kình Ngư, và Tiểu Đoàn 5 Hắc Long, phối hợp với Thiết Đoàn 20, gồm các Chi Đoàn 1, 2, 3, và 4, khởi sự vào ngày 25 Tháng Giêng dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Nguyễn Thành Trí, tư lệnh phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

    Ngày 27 Tháng Giêng, các chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến cùng với các chiến xa thuộc Thiết Đoàn 20 mở cuộc tấn công trực diện vào lực lượng Cộng Quân phòng thủ tại Cửa Việt. Trận chiến ác liệt diễn ra suốt ngày, và cho tới buổi chiều cùng ngày thì Thủy Quân Lục Chiến dựng được lá quốc kỳ VNCH đầu tiên trên một phần Căn Cứ Cửa Việt.

    Nhưng trận chiến vẫn ở trong thế giằng co giữa đôi bên, và sang đến ngày 28 Tháng Giêng, chỉ ít phút trước khi Hiệp Định Paris có hiệu lực, các lực lượng Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp mới hoàn toàn làm chủ chiến trường, đánh bật Cộng Quân ra khỏi các vị trí họ đang cố thủ và chiếm lại Căn Cứ Hải Quân Cửa Việt từ tay Cộng Quân.

    Giai đoạn 2:
    Tối ngày 29 Tháng Giêng, khoảng hai trung đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt, bất chấp lệnh ngưng bắn do Hiệp Định Paris quy định và có hiệu lực một ngày trước đó, đã mở cuộc hành quân hợp đồng binh chủng bộ binh và chiến xa, có sự yểm trợ tối đa của pháo tầm xa 130 ly và hỏa tiễn 122 ly, phản công tiến đánh Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango. Sau một ngày kịch chiến, địch quân đã cắt đứt đường liên lạc và tiếp tế đạn dược cho Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp VNCH. Sau đó, Cộng Quân tập trung tối đa hỏa lực trọng pháo trong vùng để bắn vào các lực lượng VNCH đang bị bao vây trong Căn Cứ Cửa Việt.

    Vì Không Quân và Hải Quân VNCH đã không hoạt động hữu hiệu để yểm trợ cho quân bạn trước hỏa lực hùng hậu của súng phòng không, trọng pháo tầm xa và hỏa tiễn của Cộng Quân, lực lượng Thủy Quân Lục Chiến và Thiết Giáp bên trong căn cứ phải rút lui về tuyến sau, và Cộng Quân đã chiếm lại Căn Cứ Cửa Việt vào ngày 31 Tháng Giêng, 1973.

    Các con số thương vong trong Trận Cửa Việt, được cả hai phía bạn và thù công bố, cho thấy mỗi bên đều có hàng trăm chiến binh tử trận và bị thương.

    Mỹ cúp viện trợ và rút quân khỏi miền Nam Việt Nam

    Có thể nói rằng kết quả của trận Cửa Việt là hậu quả trực tiếp đầu tiên của việc Mỹ cúp viện trợ và rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, dựa vào những sự kiện sau đây:

    -Thứ nhất, như đã nói, trận Cửa Việt diễn ra ngay trước và sau khi Hiệp Định Paris 1973 về ngưng bắn tại chỗ và tái lập hòa bình tại Việt Nam được ký kết và có hiệu lực, đánh dấu việc Hiệp Định Paris bị phía Cộng Sản trắng trợn vi phạm trước cặp mắt dửng dưng và bất lực của Ủy Ban Quốc Tế về Kiểm Soát và Giám Sát Đình Chiến Việt Nam (International Commission of Control and Supervision, ICCS) được quốc tế ủy nhiệm hoạt động ngay sau khi Hiệp Định Paris 1973 được ký kết. Vì không có sức mạnh quân sự trong tay để thực thi pháp luật chống kẻ vi phạm, ủy ban này không làm cho Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam phải khiếp sợ mà nghiêm chỉnh thi hành một hiệp định do chính họ mới vừa đặt bút ký vào và chưa kịp ráo mực, để họ phải ngưng cuộc tấn công chiếm lại, một lần nữa, Căn Cứ Cửa Việt đã được Quân Lực VNCH tái chiếm chỉ mấy ngày trước đó.

    -Thứ nhì, trước ngày 28 Tháng Giêng – ngày Hiệp Định Paris có hiệu lực – các pháo đài bay B-52 và hải pháo từ các chiến hạm của Hải Quân Hoa Kỳ ngoài khơi Việt Nam vẫn còn yểm trợ cho Lực Lượng Đặc Nhiệm trong cuộc tấn công và chiếm lại Căn Cứ Cửa Việt, nhưng khi Hiệp Định Paris bắt đầu có hiệu lực, để nghiêm chỉnh thi hành hiệp định này, phía Mỹ bèn rút ngay phi cơ và chiến hạm ra khỏi không phận và hải phận Việt Nam, giao lại trách nhiệm yểm trợ quân bạn cho Không và Hải Quân VNCH, với hỏa lực dĩ nhiên là không thể nào hùng mạnh bắng phía Mỹ. Sự kiện này đã khiến cho các lực lượng bạn đang phòng thủ tại Cửa Việt mất sức yểm trợ phi pháo và hải pháo cần thiết khi phải chiến đấu giữa vòng vây của quân địch ngay trên “sân nhà” của họ, với các trung đoàn Cộng Quân được yểm trợ hùng hậu bằng trọng pháo, súng cao xạ cùng hỏa tiễn phòng không và hỏa tiễn chống xe tăng.

    -Thứ ba, chuyện Quân Lực VNCH có hỏa lực mạnh hơn gấp bội so với quân chính quy của Cộng Sản chỉ là huyền thoại, nhất là kể tử năm 1970 trở đi, khi Cộng Quân đã được trang bị những loại hỏa tiễn phòng không tối tân như SA-7, hỏa tiễn chống xe tăng AT-3, và các loại trọng pháo tầm xa như đại bác 130 ly và hỏa tiễn 122 ly.

    Khối Cộng Sản biết phía Mỹ có không lực và hỏa lực chiến xa rất mạnh nên đã phát triển các loại súng cao xạ, hỏa tiễn phòng không và hỏa tiễn chống chiến xa vô cùng lợi hại để đối phó. Các đối tượng của những loại vũ khí nguy hiểm đó là các chiến đấu cơ F-105 Thunderchief, A-4 Skyhawk, A-6 Intruder, F-4 Phantom, B-52 Stratofortress, F-111 Aardvark, và chiến xa M-60 của Mỹ chứ không phải là các thiết vận xa M-113 hoặc chiến xa M-41 và M-48 cũng như các khu trục cơ A1-H Skyraider hoặc Douglas AD-6, oanh tạc cơ B-57 Canberra, phi cơ hỏa long AC-47 và AC-119G/K, cùng chiến đấu cơ F-5A/B/C/E Freedom Fighter của Quân Lực VNCH.
    Thiết Giáp tại Cửa Việt năm 1967. (Hình minh họa: Flickr manhhai)
    Người ta sẽ không hề ngạc nhiên khi thấy Hải, Lục, Không Quân VNCH, tuy được coi là lớn mạnh đến thế, nhưng chỉ được trang bị vũ khí tương đối dùng được thôi chứ không mấy tối tân khi biết rằng phía Hoa Kỷ luôn cố tình trang bị yếu kém cho dồng minh của mình để họ phải tùy thuộc đặng dễ bề khuynh loát, kể cả đưa quân chiến đấu vào miền Nam Việt Nam đặng trực tiếp đánh nhau với Cộng Quân.

    Phải biết rằng, trong trận Ấp Bắc hồi năm 1963, giữa lúc phía Cộng Quân tấn công đã được trang bị súng tiểu liên AK-47 rồi mà các lực lượng VNCH tham chiến vẫn còn phải sử dụng loại súng trường M1 Garand hoặc cao lắm là súng liên thanh M2 Carbin của thời Thế Chiến Thứ Hai và Chiến Tranh Triều Tiên để chiến đấu. Đã thế, kể từ năm 1970, khi Hoa Kỳ chuẩn bị “tháo chạy” khỏi Việt Nam, số lượng viện trợ về vũ khí và đạn dược cho Quân Lực VNCH cũng bắt đầu giảm dần đi.

    -Thứ tư, quốc tế đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trước những vi phạm trắng trợn các điều khoản chính yếu trong Hiệp Định Paris của phía Cộng Sản, bởi vì chiến tranh vẫn tiếp diễn tại miền Nam Việt Nam qua các cuộc tấn công liên tục của Cộng Sản Bắc Việt và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chứ chẳng có hòa bình gì cả, từ trận Cửa Việt, trận Tống Lê Chân, cho đến trận Phước Long, và sau cùng là trận đánh chiếm thủ đô Sài Gòn của VNCH vào ngày 30 Tháng Tư, 1975.

    Lịch sử cho thấy Hiệp Định Paris 1973 về đình chiến và lập lại hoả bình tại Việt Nam, vì chỉ chuyên đáp ứng nhu cầu cấp bách là “rút lui trong danh dự” và nhận lại hằng trăm tù binh Mỹ bị giam giữ trong các nhà tù của Cộng Sản Bắc Việt, chỉ có lợi cho phía Mỹ và phe Cộng Sản mà thôi nhưng lại hết sức bất lợi cho VNCH.

    Nhìn chung, hiệp định này chỉ là một giai đoạn trong chiến lược “vừa đánh, vừa đàm,” tức “đả đả, đàm đàm” theo kiểu Cộng Sản Trung Hoa, chứ không hề là cột mốc đánh dấu một trang sử sáng lạn nào cho dân tộc Việt Nam, nhất là dân chúng Miền Nam Tự Do, như Hoa Kỳ và Thế Giới Tự Do từng thật lòng trông đợi. (Vann Phan)
Working...
X