Announcement

Collapse

Happy Easter

THÂN CHÚC MỘT MÙA LỄ PHỤC SINH AN LÀNH, ẤM ÁP, VUI VẺ
ĐẾN VỚI CÁC BẠN VÀ GIA ĐÌNH

LV
See more
See less

16 tấn vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại, cộng sản VN đã sử dụng như thế nào?

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    16 tấn vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại, cộng sản VN đã sử dụng như thế nào?

    Click image for larger version

Name:	16TanVangVNCH.jpg
Views:	1385
Size:	29.5 KB
ID:	74351


    Thương vụ cộng sản VN bán 16 tấn vàng của VNCH Sau ngày 30/4/1975, vài tờ báo phương tây cũng như bọn bồi bút cộng sản trong nước đã đưa nhiều tin bài bịa đặt trắng trợn và lố bịch về việc nhà lãnh đạo VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã tẩu tán số vàng dự trữ 16 tấn của Miền Nam Việt Nam. Nhưng rồi cuối cùng, sau mấy chục năm, sự thật lịch sử cũng đã được làm sáng tỏ.

    Ông Huỳnh Bửu Sơn là người đã quản lý và chuyển giao số tài sản quốc gia đó cho chế độ mới.

    Ông Sơn thuộc nhóm lãnh đạo Nha Phát Hành, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam và là người giữ chìa khóa hầm vàng.

    Ông Sơn cho biết, số lượng vàng có trong hầm như thế nào, thì khi được tiếp quản và chuyển giao cho ủy ban quân quản của cộng sản lúc đó được giao toàn vẹn không thiếu một nút vàng nào cả.

    Gọi là nút vàng vì ngoài những thoi vàng tính cách ra, còn có những đồng tiền cổ, những đồng tiền vàng Napoleon nhưng được buôn lậu sang Việt Nam và bị bắt dưới hình thức những cái nút cài áo. Cho nên, khi được giao lại cho ủy ban quân quản thì toàn bộ vàng trong hầm bạc của Ngân Hàng Quốc Gia VNCH bao gồm cả những đồng tiền cổ đó được giao đầy đủ hết.

    Việc giữ chìa khóa hầm bạc không phải chỉ một người mà giữ được. Tức là có hai bộ chìa khóa, một bộ thuộc về bên kiểm soát, một bộ thuộc về bên điều hành; phải có hai bộ chìa khóa đó và thêm ông Lê Minh Kiêm, người giữ mật mã của cửa ra vào hầm vàng hầm bạc đó thì mới có thể mở cửa được.

    Việc sổ sách kế toán ghi chép thời đó cũng đã rất chặt chẽ và bảo đảm vì thật ra thời đó cũng đã có hệ thống máy điện toán rồi; tất nhiên không mạnh và nhanh như hiện nay; nhưng Ngân Hàng Quốc Gia VNCH đã có sử dụng hệ thống điện toán để theo dõi tài sản đó và ghi rõ trên các bảng kê, gọi là listings. Những bảng kê đó được đối chiếu nhiều lần mỗi khi có trường hợp đột xuất về vàng.


    Đầu tháng 6 năm 1975, Huỳnh Bửu Sơn người giữ chìa khóa kho vàng và Lê Minh Kiêm người giữ mã số của các hầm bạc được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc Gia cùng đơn vị tiếp quản tiến hành kiểm kê các kho tiền và vàng của VNCH. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Số tiền và vàng nằm trong kho khớp đúng với sổ sách từng chi tiết nhỏ.

    Ông Huỳnh Bửu Sơn kể về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng khi bàn giao cho cộng sản: Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14 kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi chút.

    Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau…

    Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho.

    Về số phận của 16 tấn vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã để lại, nguyên Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước VN Lữ Minh Châu đã trả lời rất rõ ràng câu hỏi này: “Nó đã được bán ra quốc tế trong tổng số hơn 40 tấn vàng để giải quyết những vấn đề khó khăn kinh tế cấp bách của quốc gia khi đó, trong đó có miếng ăn của người dân”.

    Theo lời kể của những người trong cuộc, cho đến nay, họ vẫn còn nhớ rất rõ những thương vụ bán vàng đặc biệt này.(Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)

    Bán qua Liên Xô

    “Chuyến hàng đầu tiên rời Hà Nội ngày 1-12-1979, số lượng 101 hòm, nặng 4.455kg… Sau đó là những hợp đồng giao vàng tái chế, vay mượn, cầm cố bán vàng với số lượng hơn 40 tấn, thu được trên 500 triệu USD” – đó là một đoạn trích phát biểu của ông Nguyễn Văn Dễ, thời điểm đó là Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Vietcombank, được ghi lại trong cuốn Lịch sử Ngân Hàng Ngoại Thương VN. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)

    Theo đó, sau năm 1975, VN đối mặt với vô vàn khó khăn về kinh tế nên rất cần ngoại tệ để giải quyết những nhu cầu cấp bách của quốc gia như mua lương thực, nguyên liệu, trả nợ cho các quốc gia cộng sản đàn anh trước đây đã viện trợ cho cộng sản VN có cơ hội xâm lăng và cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam …

    Thời điểm đó, miếng ăn của người dân thiếu hụt nghiêm trọng đến mức phải ăn trực tiếp cả hạt bo bo chưa kịp xay xát, các loại lúa mì, lúa mạch phẩm chất thấp. Các lãnh đạo cộng sản VN, vốn không hề có một chút hiểu biết gì về quản lý cũng như kinh tế, nên đã phải mất rất nhiều thời gian chạy gạo cho thấy tình hình kinh tế VN sau 1975 hết sức tồi tệ và trở nên khẩn cấp hơn bao giờ hết …

    Trong khi đó, các sản phẩm nông nghiệp trong nước lúc ấy cũng đã không đáp ứng nổi nhu cầu nội địa, nên bắt buộc phải tìm những nguồn lương thực quốc tế. Nhưng cho dù có mua bán ở đâu đi nữa thì rồi cũng phải trả tiền cho bên bán, và lấy ngoại tệ ở đâu ra? (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu). Giải pháp khả thi nhất lúc bấy giờ đối với cộng sản VN là bán vàng của quốc gia để lấy ngoại tệ.
    Tuy nhiên, rất ít người biết rằng thương vụ đặc biệt này hoàn toàn không hề đơn giản như nhiều người nghĩ, kể cả một số cán bộ cấp cao của cộng sản VN. Lý do là vì số lượng vàng của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại sau 30/04/1975 thì có nhưng lại là có xuất xứ của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, và nhất là khi đó lại đang trong giai đoạn cấm vận gay gắt của Hoa Kỳ.

    Theo cuốn “Lịch sử Ngân Hàng Ngoại Thương” ghi lại: “Kho vàng lúc ấy như sau: ngoài số vàng không đáng kể của miền Bắc (đơn vị tạ), Ngân Hàng Nhà Nước đã tiếp nhận vàng của chính quyền Sài Gòn và vàng của các nguồn khác. Cơ cấu của kho vàng rất không “đồng bộ”: vàng thỏi của Anh mỗi thỏi nặng 12,7kg, vàng thỏi của Mỹ mỗi thỏi nặng 10kg. Các thỏi đều có mã riêng, nhãn hiệu, xuất xứ. Ngoài vàng thỏi còn có các loại vàng lá Kim Thành, các loại vàng vụn (kể cả nhẫn, vòng, kiềng)”.

    “Ban đầu những người có trách nhiệm đều nghĩ đơn giản: ta có vàng, đem bán lấy ngoại tệ, việc đó đâu có khó. Nhưng ngay tại phiên giao dịch đầu tiên có tính chất thăm dò với Liên Xô, các bạn Liên Xô cho biết hàng hóa trên thị trường vàng quốc tế phải là những thỏi vàng chuẩn của Anh, Mỹ hoặc Liên Xô. Các loại vàng thỏi Anh, Mỹ… có xuất xứ tại VN không thể tiêu thụ trên thị trường vì có quá nhiều rủi ro do chính sách cấm vận của Mỹ đối với VN”.

    Vì vậy, để giải quyết vấn đề, cộng sản VN và Liên Xô đã bàn bạc, thảo luận với nhau và cuối cùng đi đến thống nhất là phải tái chế lại vàng theo tiêu chuẩn của Liên Xô, mỗi thỏi 1kg. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)

    Đến khoảng cuối năm 1979, theo lệnh của nhà cầm quyền cộng sản VN, Ngân Hàng Vietcombank đã ký với Liên Xô một số các hợp đồng để tái chế vàng của VNCH, vay mượn cầm cố số vàng và tiêu thụ vàng của VN trên thị trường thế giới.

    Sau đó, phía Liên Xô đã cung cấp cho VN các rương (hòm) bằng thép cứng theo tiêu chuẩn ngân hàng của họ. Tiếp theo, việc chuyên chở vàng cũng được thực hiện bằng máy bay thương mại của Liên Xô, nhưng suốt quá trình thực hiện, tất cả hoạt động đã được bảo mật tối đa để hành khách không được biết có loại hàng đặc biệt này trên máy bay.

    Những kiện hàng bí mật trên chuyến bay Aeroflot

    Theo ông Nguyễn Duy Lộ, nguyên Phó Tổng Giám Đốc Ngân Hàng Vietcombank kể lại thì ông là thành viên hội đồng kiểm kê quốc gia, lo những việc trong nước như kiểm kê số lượng vàng, đóng hòm theo tiêu chuẩn và niêm phong; còn phía ông Dễ thì lo các vấn đề với phía Liên Xô. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)

    Số vàng từ trong kho ngân hàng được bảo mật nghiêm ngật và chở ra phi trường Nội Bài. Công việc bảo vệ số vàng rất chặt chẽ và kín đáo. Các hòm vàng được niêm phong cẩn thận, hoàn tất các thủ tục xong xuôi mới được chuyển ra máy bay của hãng hàng không Liên Xô. Ngay cả các nhân viên phi trường khi đó cũng rất ít người được biết đến loại hàng đặc biệt này trên các chuyến bay của Aeroflot.
    Sau khi các hòm vàng được đưa lên máy bay, người có nhiệm vụ trực tiếp đi theo chuyến bay của Hãng Hàng Không Aeroflot là ông Nguyễn Văn Dễ, lúc đó là Phó Tổng Giám Đốc Vietcombank. Ông chính là người thường xuyên đi Liên Xô bất cứ lúc nào để lo cho các cuộc đàm phán, ký kết hợp đồng giao vàng, tái chế, vay cầm cố vàng, bán vàng với phía Ngân Hàng Ngoại Thương Liên Xô.

    Khi máy bay của hãng Aeroflot hạ cánh trên đất Liên Sô, ngân hàng phía Liên Xô đã có sẵn các xe bọc thép chờ đón. Họ không cần mở các hòm vàng để kiểm đếm số lượng vàng trong đó mà chỉ niêm phong bên ngòai hòm vàng rồi lại tiếp tục chuyển số vàng về kho bảo mật.

    Tất cả là khoảng hơn 40 tấn, trong số đó có 16 tấn vàng thỏi lấy được từ Ngân Hàng Quốc Gia của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, còn lại là các loại vàng khác nhau từ những nguồn khác.

    Sau khi chuyến đầu tiên chuyển đi 4.455kg vàng trong 101 chiếc hòm thì vào ngày 1-12-1979, cộng sản VN đã gửi công hàm đến Liên Xô đề nghị vay 100 triệu USD để dự phòng thanh toán nợ đến hạn trong khi chưa có nguồn thu tài chánh nào.

    Lúc này, cũng chính ông Dễ là người được cộng sản VN ủy nhiệm ký hợp đồng vay ngoại tệ này. Phía Liên Xô đồng ý cho vay, nhưng phải theo thông lệ thương mại quốc tế vì họ cũng không có ngoại tệ dư thừa, phải huy động từ thị trường tự do.Theo đó, VN chỉ có thể được vay với điều kiện phải có thế chấp bằng chính số lượng vàng chuyển sang Liên Xô. Hiệp định vay 100 triệu USD có thế chấp bằng vàng này đã hoàn tất vào khoảng tháng 3-1980.

    Lý do cho việc VN phải vay nóng ngoại tệ gấp rút như vậy là bởi số lượng vàng chuyển sang tái chế ở Liên Xô chưa thực hiện xong và không kịp đem ra thị trường bán, trong đó có Thụy Sỹ. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu). Trong khi đó thì các nhu cầu cấp bách của Việt Nam, bao gồm cả vấn đề thiếu thốn lương thực nghiêm trọng cho người dân đã bắt buộc cộng sản VN phải có ngoại tệ ngay để mua lương thực cứu đói.

    Thời gian đó, theo ông Dễ kể lại, hầu như tháng nào ông cũng phải bay sang Liên Xô để làm việc với phía Liên Sô. Hơn 40 tấn vàng của VN đã được chuyển đi trong nhiều đợt. Nhiệm vụ của phía VN là chỉ đảm trách bảo vệ việc vận chuyển số vàng đến khi đưa lên máy bay của Liên Xô; những công việc sau đó là thuộc trách nhiệm của phía Liên Xô. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)
    ___________
    Năm 1979, cộng sản VN đã phải chở 40 tấn vàng đi bán để giải quyết khó khăn kinh tế khi đó đã trở nên quá cấp bách và để mua gạo cứu đói. Nhưng 10 năm sau, năm 1989, VN đã nhập vàng về, gấp 4 lần số chở đi bán.

    Ngoài 16 tấn vàng trên, Việt Nam Cộng Hòa còn gửi 5,7 tấn vàng tại ngân hàng Bank fuer Internationnalen Zahlung Sausgleih ở Thụy Sỹ. Sau khi đã chiếm được Miền Nam Việt Nam, cộng sản VN đã mang 40 tấn vàng sang Liên Xô bán như vừa kể ở phần trên, và lấy 5,7 tấn vàng VNCH gửi bên Thụy Sỹ bán cho Tiệp Khắc. 1995-1996 Bill Clinton ký hiệp định bình thường hóa quan hệ, các khoản tiền mặt của Chính Phủ VNCH gửi ở nước ngoài đã được cộng sản VN rút về nước lên tới gần 400 triệu USD (những khoản tiền VNCH gửi ở nước ngoài bị Mỹ đóng băng sau sự kiên 30-4-1975).

    Như vậy là đã có tổng cộng gần 22 tấn vàng và gần 400 triệu USD (giá trị thời nay khoảng 1,6 tỷ USD) của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa để lại sau cái ngày tang thương 30/04/1975 của Miền Nam Việt Nam.
    (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu tổng hợp)

    Nguồn: http://nhinrabonphuong.blogspot.com/...-nam-cong.html
Working...
X