Announcement

Collapse
No announcement yet.

Mai một nghề đắp lò đất sét ở miền Tây

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Mai một nghề đắp lò đất sét ở miền Tây



    LONG AN, Việt Nam (NV) – Cũng như bao nghề truyền thống ở Việt Nam có lịch sử trăm năm, những nơi cuối cùng ở miền Tây lưu giữ nghề đắp lò đất sét không nung sắp trở thành dĩ vãng…

    Gia đình ông Nguyễn Văn Ích (Mười Ích), 60 tuổi, ở xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước, Long An, có lẽ là một trong những nơi cuối cùng ở miền Tây lưu giữ nghề đắp lò đất sét không nung.
    Những chiếc lò đất sét không nung của gia đình ông Nguyễn Văn Ích sản xuất rồi sẽ dần mai một theo thời gian. (Hình: Hoàng Nam/VNExpress)
    Sáng sớm, ông Mười Ích đẩy xe cút kít ra ao cách nhà 500 mét, cầm chiếc thau nhôm lặn xuống ao sâu để lấy đất sét làm lò.

    “Mỗi ngày phải móc khoảng 100 kg đất nguyên liệu, ngoài ngâm nước lạnh, có khi trúng mảnh chai, gai nhọn đâm rách chân tay,” ông Mười Ích nói với báo VNExpress hôm 8 Tháng Sáu.

    Nghề đắp lò đất đến với gia đình ông Mười Ích cách đây hơn 30 năm như một cơ duyên. Số là người họ hàng của ông không có tiền, ra sông móc đất sét đắp lò sử dụng. Sau nhiều lần thử nghiệm, lò đắp xong không cần nung nhưng xài bền nên những người trong dòng họ chỉ nhau cách đắp lò. Nhiều người đến chơi thấy lạ đặt mua.

    Từ gia đình đầu tiên làm lò, nghề đắp lò đất mở rộng ra năm gia đình với vài chục nhân công. Tiếng lành đồn xa, lò đất Vạn Phước sau đó xuất sang các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre.

    Trong khi ông Mười Ích ra ao tắm rửa từ chuyến lặn lấy đất trở về, chị Huỳnh Thị Đẹp, 37 tuổi, con dâu ông, đem mớ đất trộn với tro trấu. Đất đắp lò phải là loại đất sét màu xám đen dẻo dai, không lẫn tạp chất, sau đó được đem đi phơi nắng sơ cho ráo nước.

    Do là nghề thủ công nên tỷ lệ phối trộn tro, đất cũng không có công thức cụ thể, chỉ dùng cảm giác tay sao cho không cứng cũng không được quá mềm.

    Đất trộn tro xong được nhào nặn nhiều lần, đưa ra phơi sơ cho dẻo lại, rồi lại đem vô thêm tro trấu, nhào nặn một lần nữa đến khi hỗn hợp thật mịn mới đem gia công.

    Không có khuôn mẫu, nên mỗi lò thành phẩm mang tính “độc bản,” tùy theo ngẫu hứng người thợ. Chiếc lò sẽ trải qua ba công đoạn: làm đế lò, đắp thân, cuối cùng là ống khói. Mỗi lò mất gần một giờ gia công, sau khi hoàn thành cao chừng nửa mét.

    Để tạo tính thẩm mỹ cho lò, thợ dùng bay nhỏ chà vuốt láng mịn mặt ngoài. Điểm khác biệt của cách làm lò “độc nhất vô nhị” này là không đem đi nung, mà chỉ phơi nắng, nếu nắng tốt khoảng ba ngày sẽ khô. Lò thành phẩm có màu trắng xám như xi măng.

    Gia đình ông Mười thường làm lò chụm củi và lò trấu, với giá thành từ 100,000 đến 150,000 đồng ($4 tới $6.5) mỗi chiếc, bằng phân nửa so với lò xi măng, nhưng tuổi thọ cao gấp hai lần, càng chụm càng chắc. Bình quân mỗi ngày gia đình ông Mười làm khoảng hai chiếc, nhiều nhất bốn chiếc, chủ yếu bán đi các địa phương vùng ven biển ở Tiền Giang.
    Ông Mười Ích đắp phần thân cho chiếc lò. (Hình: Hoàng Nam/VNExpress)
    Thời chưa có bếp gas và điện, lò đất bán đắt như tôm tươi, mỗi bận xuất hàng xe ba gác vào đến tận nhà ông Mười Ích chở mỗi ngày vài chục cái là chuyện thường. Sau 30 năm gắn bó với nghề, ông Mười bảo gia đình vẫn làm lò đất sét cho đến khi không còn ai đặt nữa.

    Bà Đinh Thị Phương Khanh, phó giám đốc Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh Long An, cho biết theo thời gian, cuộc sống ngày càng tân tiến nên các nghề truyến thống ngày càng bị mai một. Hiện ở tỉnh chỉ còn lại 12 nghề. Một số làng nghề truyền thống như làm trống, dệt chiếu, làm bánh in, chằm nón, rèn… với số lao động hơn 1,000 người, thu nhập bình quân 4.5 triệu đồng ($194) một người, rồi đây cũng sẽ mất dần trong tương lai.

    (Tr.N) [qd]
Working...
X