Announcement

Collapse
No announcement yet.

Y khoa đang trở về với phương pháp trị liệu sử dụng con đỉa (leech)

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Y khoa đang trở về với phương pháp trị liệu sử dụng con đỉa (leech)


    Con đỉa (leech) vẫn được sử dụng trong y học hiện đại (ảnh: Tony Savino/Corbis via Getty Images)

    Vào thời Trung cổ, dùng con đỉa (tiếng Anh gọi là "leech") vốn là một cách chữa bệnh phổ biến rộng rãi trong dân gian. Và giờ đây, phương pháp trị liệu này được áp dụng trở lại trong ngành phẫu thuật thẩm mỹ và cấy ghép nội tạng.

    Sử dụng con đỉa trong y học hiện đại từ lâu bị xem như là kiểu chữa bệnh của bọn "lang băm". Nhưng kể từ năm 2004, khi Cục Kiểm soát Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt con đỉa là một phương cách giúp làm giảm tắc nghẽn ở tĩnh mạch và khôi phục lưu lượng máu trong các mô ghép có nguy cơ bị hoại tử, việc dùng con đỉa trong phẫu thuật thẩm mỹ và chỉnh hình đã gia tăng lên.

    Khi ghép mô vào một phần khác của cơ thể, các bác sĩ sẽ kết nối các mạch máu trong mô ghép với các mô ở chung quanh để duy trì việc cung cấp máu. Những ca phẫu thuật như vậy thường đạt thành công mỹ mãn, nhưng trong những tình huống không xảy ra theo đúng dự trù thì phải đưa bệnh nhân trở lại phòng mổ, kiểm tra các vết khâu và nối lại các mạch máu.

    Dù vấn đề này hiếm khi xảy ra, cách khắc phục đó vẫn có thể bị thất bại, vì các tĩnh mạch rất mỏng manh, cho nên, tuy nối được mạch, lưu lượng máu vẫn có thể bị ngăn trở do có một đầu tĩnh mạch đã bị tổn thương. Trong những trường hợp khác nữa, chẳng hạn như tìm tĩnh mạch ở ngón tay bị đứt lìa, cũng khó vô cùng. Nếu không nối được mạch, máu có thể bị đọng lại trong mô ghép và gây ra cục máu đông. Lúc đó, chỉ có con đỉa mới giúp giải quyết được vấn đề ổn thỏa.

    Jeffrey Janis, chuyên gia phẫu thuật thẩm mỹ tại Trung tâm Y tế Wexner thuộc Đại học tiểu bang Ohio cho biết, con đỉa sẽ giúp duy trì sự sống tạm thời cho đến khi các mạch máu của cơ thể phát triển vào mô được cấy ghép, nếu không có sự trợ giúp này thì mô có thể bị chết đi.

    Một bức tranh vào năm 1624 cho thấy bác sĩ có sử dụng con đỉa trên lưng một nữ bệnh nhân để chữa bệnh (Ảnh: General Photographic Agency/Getty Images)

    Nguồn đỉa y tế này lại đến từ đâu?
    National Geographic cho biết, có tổng cộng hơn 600 loài đỉa ngoài thiên nhiên, nhưng loài Hirudo medicinalis của châu Âu và Hirudo verbana của khu vực Địa Trung Hải thường được sử dụng nhiều nhất trong y khoa. Chúng có ba hàm răng trông như lưỡi cưa, mỗi hàm có khoảng 100 chiếc răng để đâm qua da.

    Trong nhiều thập niên qua, các phòng thí nghiệm ở một số quốc gia, trong đó có Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine, đã tìm cách để nhân giống những con đỉa y tế này.
    Ông Carl Peters-Bond tại Biopharm U.K., một công ty cung cấp khoảng một nửa số đỉa y tế sử dụng trong các bệnh viện trên toàn cầu, đã làm công việc này từ gần 30 năm qua. Ông cho biết phải mất khoảng hai năm mới nuôi được một con đỉa có thể dùng trong y khoa. Quá trình này bao gồm cho chúng ăn vào tuần thứ 3, từ tuần thứ 8 đến thứ 10, từ tháng thứ tư đến tháng thứ năm; sau đó chúng sẽ bị bỏ đói đến gần hai năm. Ông nói: "Chúng tôi chỉ giao hàng gồm những con 'đỉa rỗng ruột' thôi".

    Ngay khi có cuộc gọi khẩn cấp, Biopharm U.K. sẽ đóng gói từ một chục đến sáu chục con đỉa vào một lọ chứa đầy chất gel và chuyển chúng đến bệnh viện. Đôi khi, các hiệu thuốc của bệnh viện đặt hàng trước và dự trữ đỉa y tế này trong tủ lạnh, đề phòng trường hợp bệnh nhân có thể cần đến chúng khi bị đứt lìa ngón tay hoặc cần nối lại tai hay phẫu thuật tái tạo lại vú. Nhưng Biopharm U.K. cho biết, tốt nhất nên sử dụng những con đỉa này trong vòng ba tháng.

    Phương pháp trị liệu bằng con đỉa sẽ hoạt động như thế nào?
    Khi cắn, con đỉa sẽ từ từ hút máu và bơm vào vết cắn các hợp chất như hirudincalin có trong nước bọt, khiến cho máu không thể đông lại. Nước bọt của con đỉa cũng chứa các chất giống như histamine làm cho giãn mạch máu ra và cải thiện lưu lượng máu. Các bác sĩ cũng sử dụng các chất chống đông máu như heparin để ngăn ngừa cục máu đông hình thành trong quá trình phẫu thuật chỉnh hình.

    Tùy thuộc vào kích thước của mô ghép và mức độ bị tắc nghẽn, việc sử dụng con đỉa có thể kéo dài trong vòng 3 đến 10 ngày hoặc lâu hơn, cho đến khi mô đã "bớt sưng, bớt tím và trở nên gần như bình thường". Bệnh nhân phải ở lại bệnh viện để cho nhân viên y tế giám sát quy trình này như cần thay những con đỉa căng máu bằng một con mới bị bỏ đói. Mỗi con đỉa này chỉ có thể sử dụng một lần và sau đó sẽ bị tiêu hủy.

    Sau đây là một dẫn chứng về phương pháp trị liệu bằng con đỉa
    Khi mắc một chứng ung thư hiếm gặp có tên Sarcoma hoạt dịch, Ellie Lofgreen đã đến bệnh viện ở Đại học tại Utah để được chạy chữa. Các bác sĩ đã loại bỏ khối u bao quanh khớp gối, đồng thời cắt bỏ vài cm xương và cơ bắp nối tiếp với đầu gối. Họ cấy ghép một miếng kim loại vào chân cô và phủ lên đó một lớp cơ và da khá lớn, lấy từ phần đùi trên. Nhưng vài giờ sau, mảng ghép đó bắt đầu chuyển màu tím tái, một dấu hiệu cho thấy mô ghép đang bị hoại tử.
    Việc cứu mô ghép là rất quan trọng nên đội ngũ y tế đã đề xuất một phương pháp điều trị khiến cho Lofgreen kinh ngạc và suýt đã từ chối: con đỉa.
    Trong suốt hai tuần, hơn 100 con đỉa đã được dùng để hút máu từ mô ghép của Lofgreen. Cứ bốn tiếng lại có y tá đến đặt một con đỉa mới, nó sẽ hút máu trong khoảng từ 15 đến 120 phút trước khi rơi xuống giường. Trong khi điều trị, cô được truyền máu để thay thế lượng máu đã mất đi.
    Theo thời gian điều trị, phần mô ban đầu có màu sẫm và hoại tử đã chuyển sang màu tím nhạt và làn da trông bình thường hơn. Nhưng sau khi Lofgreen trở về nhà, một phần nhỏ của miếng da ghép đã bị nhiễm trùng và phải cắt bỏ đi. Bị nhiễm trùng không phải do sử dụng đỉa mà do vết thương bị hở. Tuy nhiên, rõ ràng đỉa đã cứu được phần lớn miếng ghép này.

    Một cuộc nghiên cứu khác sau khi xem xét 277 trường hợp sử dụng loại đỉa y tế đã thông báo tỷ lệ thành công là 78%. Ernest Azzopardi, chuyên gia phẫu thuật thẩm mỹ tại London kiêm đồng tác giả của cuộc nghiên cứu, cho biết: "Đây là một lựa chọn rất hấp dẫn để giữ được các mô ghép. Nhưng do thiếu các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên thiết thực, một tiêu chuẩn vàng để đánh giá mức hiệu quả của biện pháp can thiệp, mà người ta ít tin tưởng vào việc sử dụng phương pháp điều trị bằng con đỉa".

    Một nhược điểm khác là bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng da khi điều trị bằng phương pháp này do vi khuẩn Aeromonas sống trong ruột con đỉa và được tìm thấy trong nước bọt của chúng. Những người nuôi đỉa như Peters-Bond không sử dụng thuốc kháng sinh. Ông nói, mặc dù các loại thuốc đó có thể loại bỏ vi khuẩn trong đường ruột của đỉa, nhưng chúng vẫn sẽ quay trở lại. "Cách mà chúng tôi làm là bỏ đói đỉa để không còn máu trong ruột, như thế vi khuẩn sẽ chỉ có mặt ở mức tối thiểu nhất".

    Đỉa… "nhân tạo"
    Trong nhiều năm, giới khoa học đã tìm kiếm giải pháp thay thế cho loài đỉa sống. Những nỗ lực ban đầu bắt nguồn từ thế kỷ 19, khi nhu cầu về con đỉa ở châu Âu lên cao và động vật không xương sống này trở nên khan hiếm, vì thế mà giá cả có đắt đỏ hơn. Chẳng hạn, vào năm 1817, Jean-Baptiste Sarlandière, chuyên gia về giải phẫu học và sinh lý học người Pháp, đã phát minh ra một thiết bị dùng để rút máu bệnh nhân gọi là bdellometer.

    Các chuyên gia tại Đại học Utah từ năm 2013 cũng đã phát minh một loại đỉa cơ học có thể cung cấp chất chống đông máu và cũng bắt chước lực hút của con đỉa. Nguyên mẫu này bao gồm một dãy kim đâm vào da, trong đó kim trung tâm sẽ cung cấp chất heparin chống đông máu cho mô đầy máu, và các kim ở chung quanh được nối với bơm để hút máu ra. Thiết bị này có kích thước chỉ bằng ngón tay cái sẽ cho phép các bác sĩ kiểm soát thể tích và tốc độ hút máu, điều không thể thực hiện được khi sử dụng loại đỉa thiên nhiên. Hiện tại, nhóm đang cố gắng cải thiện lưu lượng của chất chống đông máu vào mô, nơi sẽ gắn thiết bị này.

    Các khoa học gia khác cũng đã phát minh ra những nguyên mẫu tương tự có tiềm năng. Một số người đã thử nghiệm công dụng của chúng trên loài động vật. Còn trong hiện tại, những con vật hút máu này vẫn còn tiếp tục giữ một vị trí nhỏ nhưng quan trọng trong y khoa hiện đại.



Working...
X