Announcement

Collapse
No announcement yet.

Tại sao lại có những người luôn sống trong nổi lo lắng?

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Tại sao lại có những người luôn sống trong nổi lo lắng?

    Trong cuộc sống hàng ngày, thỉnh thoảng chúng ta lại bắt gặp thấy một người lại thích… lo lắng. Họ luôn cảm thấy bất an và lo lắng vu vơ về một điều gì đó.

    Có vẻ như họ không thể tự kiểm soát lấy bản thân và luôn bị ám ảnh bởi một vấn đề không rõ ràng. Lo mất trộm, lo nhà cháy, lo đang "dính" một căn bệnh hiểm nghèo nào đó. Một cuộc nghiên cứu mới cho thấy, sự lo lắng này không phải đến từ thực tế đời sống mà từ trong chính não bộ. Cách thức nào mà bộ não xử lý các thông tin để khiến cho một số người lại bị rơi vào tình trạng tâm lý éo le kiểu này?

    Sinh ra để… lo!
    Một bà mẹ có con theo học đại học thường tự hỏi lại mình: "Tại sao tôi đã giải quyết xong mọi việc và không phát hiện ra lỗi lầm gì nhưng vẫn thấy trong lòng không được yên tâm, đầu óc cứ suy nghĩ miên man, dù không biết đó là gì? Tôi luôn không hài lòng với bản thân và cái cảm giác 'không an toàn' này sẽ không bao giờ mất đi. Hậu quả là bị trầm cảm và kiệt sức vì luôn phải sống trong tâm trạng lo lắng".

    Tiến sĩ David Levari, trưởng nhóm nghiên cứu về vấn đề này tại Mỹ có giải thích: "Lỗi này là do cách xử lý thông tin của não ở một số người không giống như đại đa số chúng ta, cho nên họ đã nhận được các tín hiệu sai từ não bộ".
    Lấy dẫn chứng từ một đội bảo vệ khu phố gồm những người tình nguyện với mục tiêu là giúp làm giảm bớt các tệ nạn xã hội và tội ác tại khu dân cư.
    Khi thấy những dấu hiệu của tội phạm như ăn trộm, hút chích ma tuý hay đánh nhau, họ sẽ báo động với cư dân và gọi ngay cảnh sát. Nếu đội ngũ cảnh giới này làm việc có hiệu quả, tội ác sẽ giảm đi và đội tình nguyện sẽ bớt quán xuyến công việc này nhiều hơn.

    Tuy nhiên, sự thật không hẳn là là như thế. Dù cho số vụ đánh nhau và ăn trộm trong khu dân cư ngày càng hiếm xảy ra hơn, đội tình nguyên ít phải gọi điện cho cảnh sát hơn và nạn mất an ninh trật tự tưởng như đã trở thành câu chuyện của quá khứ, cuộc nghiên cứu này đã cho thấy, một vài người tình nguyện vẫn còn bị ám ảnh bởi những dấu hiệu nghi ngờ và luôn ở trong tình trạng cảnh giác cao độ.

    (Minh họa)

    Họ không giống với các đồng nghiệp khác, bất chấp các số liệu thống kê và sự xác nhận của chính quyền về mức độ an toàn của khu phố. Rõ ràng, mối ám ảnh và sự đề cao cảnh giác của những người này không thể hiện tình hình đời sống thực tế đang diễn ra mà lại đến từ "trí tưởng tượng" phong phú của họ. Tình trạng tương tự như vậy cũng thấy xảy đến với những người thường xuyên mắc chứng lo âu.

    Đối với họ, cuộc sống là một mối lo toan dai dẳng mà không bao giờ có hồi kết thúc. Họ lo ngay từ lúc đang tham dự một cuộc vui hay lúc vừa nghe qua có một tin vui. Thậm chí lo cả khi… không có gì để lo cả! Những lời khuyên "hay quăng gánh lo đi" đối với họ gần như là vô nghĩa. Họ cảm thấy bị tuyệt vọng trong lo âu và cái định nghĩa về sự lo lắng lại khác biệt với đại đa số chúng ta. Lo không phải vì mục tiêu không đạt được, công việc không hoàn thành, mà lo chỉ để mà… lo! Làm sao giải quyết dứt điểm một công việc nếu bạn cứ bị nó theo ám ảnh ngày đêm cho dù đã hoàn tất xong rồi? Ví dụ: một người trước khi ra khỏi nhà, đã kiểm soát chuyện điện nước, bếp núc cẩn thận, nhưng vẫn lo một điều gì đó sắp xảy ra với ngôi nhà của mình.

    Rồi một người suốt ngày ngồi tưởng tượng đang mắc một căn bệnh nan y nào đó sau khi phát hiện ra một triệu chứng rất nhỏ và liên tục đi thăm khám bác sĩ hay lên Google tìm hiểu. Đối với họ, ám ảnh bệnh tật là chuyện "mặc định", còn chuyện xét nghiệm và lời khuyên của bác sĩ chỉ là để… tham khảo! Những người này luôn mang cái cảm giác là mình có bệnh "giả tạo".

    Căn bệnh không dễ chữa trị
    Vậy thì, làm sao để ngăn chặn "bệnh hay lo" này khi nó lại có nguồn gốc ở bộ não xử lý các thông tin. Nghiên cứu của ông Levari đã cho những người tình nguyện nói trên vào phòng thí nghiệm và đề nghị họ hoàn thành một công việc đơn giản. Khi tất cả đã làm xong, chụp ảnh biểu cảm khuôn mặt cho thấy, đa số đều thấy thư giãn, thoải mái trong khi có một vài người vẫn còn phảng phất nét lo âu dù rằng chất lượng công việc họ vừa làm còn tốt hơn so với những người khác.

    (Minh họa)

    Giống như trong đầu họ đang có một câu hỏi: "Phải chi cho phép được làm lại, tôi còn làm tốt hơn nữa!", và họ tiếc nuối với chữ "phải chi" này. Những người tình nguyện cũng được cho quan sát nhiều loại mặt người do máy tính tạo ra, từ vô hại, thân mật đến dữ tợn, đe doạ. Phản ứng của người hay lo và người bình thường cũng khác nhau. Ngay cả khi nhìn thấy một khuôn mặt vô hại, nét mặt người hay lo vẫn còn ẩn giấu sự bất an. Điều này cho thấy cách thức mà não bộ của người hay lo, khi thẩm định về sự an toàn sẽ không hề giống so với người bình thường.

    Nói cho rõ hơn, là cách xử lý thông tin trong não của họ có sự khác biệt. Họ không hoàn toàn kiểm soát hay nhận thức đúng với thực tế mà chỉ thích tưởng tượng thêm nhiều hơn. Đó cũng là lối suy nghĩ của những bậc cha mẹ luôn lo lắng cho những đứa con học xa, sợ những điều không hay xảy ra với chúng dù họ biết rằng, "có lo ít hay nhiều gì cũng không có tác dụng gì cả". Trong đầu, họ luôn lảng vảng những tình huống xấu nhất mà không tin con mình có đủ bản lĩnh và trí khôn để vượt qua khó khăn.

    "Lo lắng quá đáng là một phạm trù về tâm lý và thường sẽ tự vượt qua được sau một thời gian qua các trải nghiệm thực tế. Nhưng có lúc 'căn bệnh' này lại kéo dai dẳng đến suốt đời", ông Levari nói. Ví dụ một người không bao giờ mất đi cái cảm giác bị trộm sắp viếng nhà dù anh ta đã áp dụng mọi biện pháp phòng ngừa chặt chẻ. Nói như vậy để cho thấy rằng, sự lo lắng còn là sản phẩm của trí tưởng tượng. Tưởng tượng càng phong phú, lo lắng sẽ càng nhiều và kéo dài.

    Không chấp nhận thực tế, không tin người, không tự tin ngay chính bản thân sẽ phát sinh ra lo lắng, ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ của tinh thần. Người luôn sống chung với sự lo lắng là người đã tự tước đi niềm vui sống và để mất đi rất nhiều cơ hội tốt đẹp trong đời. Một số cuộc nghiên cứu về tâm lý về nhận thức và khoa thần kinh học đều cho thấy, tác phong lo lắng thái quá có nguồn gốc từ não bộ và cách mà bộ não so sánh sự kiện xảy ra trước mặt chúng ta và cái chưa từng xảy đến. Một chuyện nhỏ đôi khi cũng biến thành nghiêm trọng, dẫn đến sự lo âu quá đáng.

    (Minh họa)

    Nghiên cứu của ông Levari cho thấy người hay lo sử dụng ít năng lượng hơn vào việc đánh giá tình trạng thực tế so với người bình thương. Thông tin về một vấn đề được xử lý chưa đến, nên thường bị xảy ra "lỗi". Một việc tuy đã hoàn tất rồi, vậy mà người hay lo lắng vì tưởng rằng chưa làm xong. Ví dụ như đã khoá cửa nhà thật kỹ rồi mà họ vẫn còn thấy áy náy trong lòng, lo toan vẩn vơ. Thẩm định thông tin không đầy đủ của não bộ sẽ dẫn đến các nổi lo lắng vô bổ, không cần thiết.

    Từ việc chẩn đoán y khoa đến chuyện đầu tư về tài chính, con người đương đại đã được hưởng lợi rất nhiều từ các tiến bộ của nền kỹ thuật tiên tiến. Nhưng đối với những người hay lo lắng thì dù có ngồi trên một đống tiền, họ vẫn lo rằng, có ngày họ sẽ bị chết đói! Được làm đầy đủ các xét nghiệm y khoa với các kết quả tốt đẹp nhưng họ vẫn tin rằng, mình đang mắc một căn bệnh mãn tính nào đó và sẽ ...chết đi!!!

    Ở mức độ nhỏ, lo lắng, căng thẳng và lo âu có thể là những yếu tố tích cực trong tâm trí chúng ta. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy hầu hết chúng ta đều lo lắng, căng thẳng và lo âu quá mức.

    Theo các chuyên gia tâm lý, tin tốt là có những bước căn bản và đơn giản (nhưng không hề dễ dàng) giúp điều chỉnh các triệu chứng, đó là: ngủ đủ giấc, ăn những món bổ dưỡng và vận động cơ thể thường xuyên.

    ST




    Attached Files
Working...
X