NỔI TRÔI VẬN NƯỚC : CHUYỆN CHƯA KỂ VỀ TRẬN HOÀNG SA
Sau đây là lời kể của Thiếu Tá Phạm Văn Hồng (Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I .
Câu chuyện của 45 năm trước về trận Hoàng Sa với nhiều tình tiết khá đặc biệt mà ông chưa hề phổ biến trên báo chí lâu nay.
NHẬN LỆNH RA HOÀNG SA VỚI NHIỆM VỤ THIẾT LẬP PHI TRƯỜNG
Buổi sáng 15-1-1974 tôi nhận lệnh thượng cấp ra đảo Hoàng Sa để thiết lập một phi trường quân sự, lúc đó tôi là Sĩ Quan Lãnh Thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I nên việc thượng cấp giao cho là hợp lý.
Chiều hôm đó, thay vì di chuyển bằng xe quân sự, thì nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng là ông Kosh lại lấy chiếc Falcon chở tôi cùng đi với ông qua bên Tiên Sa.
Đến nơi vào khoảng 5, 6 giờ chiều, trời đã gần tối, chúng tôi lên chiếc HQ16 do Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự là Hạm Trưởng ; HQ16 đưa chúng tôi ra tới đảo Hoàng Sa vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau.
Trời hừng sáng, tôi thức dậy và nhìn ra khơi, xa xa có mấy chiếc tàu nhỏ đang di chuyển, dần dần những chiếc tàu đó nhắm hướng HQ16 chạy tới, nó cứ chờn vờn trước mũi tàu mình và nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “ kỳ đà cản mũi ”.
Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự lấy làm lạ và nói với tôi :
- “ Hình như nó muốn khiêu khích mình”.
Nó giả dạng tàu đánh cá, cho một vài tên mặc quần đùi, ở trần ra ngồi bên mạn thuyền thả câu, câu cá. Chúng tôi mặc kệ nó và ở đó vài tiếng sau thì đổ bộ lên bờ.
Ngoài tôi làm toán trưởng, còn có một Trung Úy Liên Đoàn 8 Công Binh Kiến Tạo, một Trung Úy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu, hai Hạ Sĩ Quan đi theo hai Trung Úy và ông Kosh, như vậy toán chúng tôi có tất cả 6 người đặt chân xuống đảo.
Hai Trung Ùy lo đi thám sát địa hình, đo đạc để có dữ kiện thiết lập phi trường. Ở trên đảo có sẵn một toán Khí Tượng nên cần biết gì về thời tiết, Nhóm Khí Tượng sẵn sàng cung cấp đầy đủ.
Ngoài Nhóm Khí Tượng còn có một đơn vị Địa Phương Quân trú đóng.
Khu đồn trú của lính địa phương quân trên đảo Hoàng Sa (ảnh chụp năm 1959).
BIỂN ĐÔNG DẬY SÓNG
Sáng ngày 18-4-1974 từ trên đảo nhìn ra biển thấy tình hình khác hẳn mấy ngày trước.
Tàu của Trung Cộng nhỏ nhưng khá nhiều, còn bên Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa thấy có bốn chiếc HQ16, HQ4, HQ10 và HQ5.
- Hai chiếc HQ5 và HQ16 là Tuần Dương Hạm
- Chiếc HQ4 là Khu Trục Hạm . HQ4 nhỏ hơn nhưng hỏa lực mạnh hơn.
- Còn HQ10 là Hộ Tống Hạm.
Chiều ngày 18 /1/1974 tôi nhận được lệnh của Hải Quân Trung Tá Lê Văn Thự nói sẽ cho dzu dzu (một loại xuồng cao su) đến đón chúng tôi lên HQ5.
HQ5 bây giờ được gọi là Soái Hạm (tàu chỉ huy) vì có Hải Quân Đại Tá Hà Văn Ngạc đang ở trên đó để tổng chỉ huy.
Tôi lên HQ5 và chờ đến khoảng 10 giờ thì loa phóng thanh nói :
- " Mời Thiếu Tá Phạm Văn Hồng lên đài chỉ huy để gặp Hải đội trưởng”.
Tôi lên phòng chỉ huy, Đại Tá Hà Văn Ngạc vỗ vai tôi và nói :
- “ Toa à, cái thằng Kosh này là bạn moa, nó nhát gan, nó sợ và muốn lên đảo, nó bảo ở trên tàu nguy hiểm quá, vậy toa đi với nó lên đảo trở lại”.
Rồi ông ra lệnh lấy dzu dzu đưa chúng tôi vào đảo. Cặp vào đảo thì đã khuya, anh em Địa Phương Quân họ cũng đã ngủ hết .
Suốt một đêm vật vã với sóng gió, tôi cũng mệt nhoài nên sáng hôm sau khi nghe có tiếng heo kêu tôi mới thức dậy thì trời đã sáng rõ. Sở dĩ có tiếng heo kêu là vì mấy anh em Địa Phương Quân khi nhận lệnh ra giữ đảo, biết nhiệm kỳ của mình sẽ ăn Tết trên đảo nên họ mang một con heo ra nuôi để Tết mổ thịt.
Khi vừa rửa mặt xong thì nghe mấy anh em Điạ Phương Quân nhao nhao nói :
- “ Có lẽ không xong rồi Thiếu Tá ơi !”
Và tôi bắt đầu nghe tiếng súng nổ , lúc đó vào khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 19-1-1974.
Tôi leo lên sân thượng của Đài Khí Tượng nhìn ra biển thấy hai chiếc tàu Trung Cộng chưa chìm nhưng đang trong tư thế sắp chìm và tôi nghĩ chắc chắn sẽ chìm, còn bên phía Hải Quân mình tôi thấy các lằn đạn của tàu Hải Quân Trung Cộng cũng đang ghim vào chiến hạm của mình.
Hai bên đang thi nhau nã đạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ thi nhau nổ dòn dã.
Tôi xuống phòng truyền tin, ở đây chỉ có mỗi chiếc máy C.25 để anh em liên lạc với tàu khi lên xuống thôi.
Tôi nghe âm thoại viên của Hải Quân nói :
- “ Thiếu Tá Hồng, tôi đã mất liên lạc, nhờ Thiếu Tá gọi ngay về Đà Nẵng giúp, nói là tàu tôi đã bị nghiêng 30 độ, mắt thần chúng tôi đã bị hư”.
Đó là tất cả những gì tôi nghe được qua máy truyền tin C.25.
Tôi nhờ bên Đài Khí Tượng cho sử dụng máy Motorola, anh em bên Khí Tượng cho biết, họ chỉ lên máy mỗi đầu giờ, bây giờ đang là giữa giờ, lên máy không có tín hiệu nhận.
Nhưng anh em bên Đài Khi Tượng vẫn mở máy. May quá, có Phú Quốc lên máy.
Tôi nhờ Phú Quốc gọi về Sài Gòn, yêu cầu Sài Gòn gọi ra Đà Nẵng nói Đà Nẵng “ lên máy ”.
Nói thì nghe ngắn gọn như vậy nhưng lúc đó mất rất nhiều thời gian, không như bây giờ có cell phone, liên lạc với nửa vòng trái đất cũng chỉ trong tíc tắc !
Khi tôi liên lạc được với Đà Nẵng, tôi yêu cầu Đà Nẵng gọi “Uy Dũng” là tên Tổng Đài Quân Đoàn I của chúng tôi, tôi cho số máy của Trung Tâm Hành Quân và số máy của Quân Đoàn I, yêu cầu liên lạc ngay với tôi qua tổng đài của Ban Khí Tượng ngoài đảo Hoàng Sa.
Lúc đó tiếng súng giữa các chiến hạm của ta và của Trung Cộng đã tạm lắng dịu nhưng súng bắt đầu nổ trên đảo.
Tôi lên Đài Khí Tượng quan sát thì thấy các chiến hạm của ta ở vòng ngoài, còn tàu Trung Cộng thì lại ở vòng trong, có nghĩa là chúng tôi đã bị tàu Trung Cộng bao vây.
Những chiếc tàu của Trung Cộng theo anh em Hải Quân ta cho biết là những chiếc Kronstad, tất cả đều quay mũi tàu của họ vào đảo, còn các chiến hạm của ta thì quay mũi ra phía ngoài biển.
Các chiếc Kronstad tiến sát vào bờ và đổ quân, chúng dàn hàng ngang tiến lên đảo.
Lúc này trên đảo bên ta chỉ có một Trung Đội Địa Phương Quân hơn 20 quân nhân, bốn năm anh em chuyên viên Khí Tượng và thêm toán chúng tôi 6 người nữa mà phải đương đầu với khoảng một tiểu đoàn Trung Cộng.
Cũng cần biết thêm là theo anh em đi thám sát đo đạc để lập phi trường có cho biết, chu vi đảo chỉ chừng 1 cây số 6.
Nếu thiết lập phi trường thì chỉ có thể làm phi đạo dài 500 thước, ngang 300 thước mà thôi, và phi đạo như thế chỉ sử dụng cho các loại phi cơ 123 Caribou chứ loại C.130 không thể hạ cánh được.
Cho nên với chu vi gần 2 cây số mà chỉ có khoảng 20 người, làm sao kiểm soát hết được, trong khi đó sở trường của Trung Cộng luôn luôn là “lấy thịt đè người”.
Với quân số ít oi và vũ khí cũng không có gì mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần là hết đạn.
Tuy nhiên anh em vẫn chiến đấu với biển người Trung Cộng.(Sài Gòn trong tôi/ Posted by Phan Công Danh/ theo Viễn Đông)
Comment