Announcement

Collapse
No announcement yet.

“Nước Mắt Trước Cơn Mưa” ( tiếp theo Phần 11)

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” ( tiếp theo Phần 11)



    Tác giả: Larry Engelmann

    Người dịch: Nguyễn Bá Trạc

    18-4-2021 - Báo Tiếng Dân

    Tiếp theo Phần 1Phần 2Phần 3Phần 4Phần 5Phần 6Phần 7Phần 8Phần 9

    “Có một căn bệnh”

    Chuẩn tướng Lý Tòng Bá (Tư lệnh Sư đoàn 25 QĐVNCH)

    Tôi sinh năm 1931 tại miền Nam Việt Nam. Tốt nghiệp võ bị Đà Lạt, trở thành sĩ quan quân đội kể từ 1952. Với cấp bực thiếu úy, tôi đã phục vụ một năm tại vùng châu thổ sông Hồng.

    Năm 1975, tôi là chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 25 Quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Củ Chi. Trước, tôi từng là Tư lệnh Thiết giáp. Kể từ cuối năm 1974, tôi được yêu cầu chỉ huy Sư đoàn 25. Tôi đã điều động sư đoàn này trong thời gian năm tháng. Khi xảy cuộc tấn công Ban Mê Thuột, tôi đang hành quân bình định tại vùng Bắc Tây Ninh. Tại đây chúng tôi đã bị lực lượng Cộng sản cố cầm chân.

    Khi nghe tin cao nguyên triệt thoái, tôi biết việc này sẽ gây vấn đề lớn. Tôi tưởng sau đó quân đội sẽ củng cố lực lượng quay vòng trở lại, hoặc sẽ thiết lập một chiến tuyến tại một địa điểm nào. Nhưng không có chuyện gì. Không quay trở lại. Cũng chẳng đánh chác. Tôi không rõ việc gì đã xảy ra như vậy.

    Lúc ấy chúng tôi đang đương đầu với Sư đoàn 9 của quân đội Bắc Việt gần Củ Chi. Họ đang cố đẩy quân xuống Sàigòn bằng quốc lộ số 1. Binh sĩ tôi đã tận lực chiến đấu. Cuối tháng ba, chúng tôi đụng địch ở Truong Mit. Chúng tôi tổn thất hơn 400 sinh mạng trong một trận ác liệt, nhưng không một ai bỏ chạy.

    Tôi nghe nói có vài Tướng lãnh bỏ rơi binh sĩ họ, tôi không ngạc nhiên. Nhưng tôi biết binh sĩ tôi, tôi biết đơn vị tôi. Tôi biết các sĩ quan chỉ huy của tôi. Tôi có lòng tin nơi binh sĩ, họ cũng có lòng tin tôi. Tôi biết địch quân là ai, ở đâu và họ đang làm gì.

    Tôi cố liên lạc với các thượng cấp tôi là Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên để báo cáo tình hình. Tôi muốn cho họ biết: Cuối cùng chúng tôi không còn có thể làm gì hơn nữa. Tất cả đã hỏng rồi. Sư đoàn 25 chúng tôi đang phải cầm cự với trọn một sư đoàn địch, nhưng chỉ vài ngày sau, đã cùng một lúc phải thọ địch với ba sư đoàn có cả chiến xa.

    Để bảo vệ việc xâm nhập Sài Gòn từ mặt phía Đông, Sư đoàn 18 do tướng Lê Minh Đảo chỉ huy đánh ở Xuân Lộc. Để bảo vệ mặt phía Tây, sư đoàn chúng tôi phải chặn quốc lộ số 1 từ Sài Gòn đi Tây Ninh. Sáng ngày 29 tôi dẫn một lực lượng đặc nhiệm vào Bến Tre(?), nhưng binh sĩ không còn nữa. Họ thất tán, lạc lõng khắp nơi. Tôi không còn làm gì được. Tôi cố tập hợp lực lượng còn lại để tiếp tục chiến đấu, tôi đã yêu cầu tướng Toàn cho tôi sắp xếp lại các tiểu đoàn. Bộ đội Cộng sản lúc này tiếp tục tấn công nhưng số binh sĩ Cộng Hoà còn lại vẫn không e ngại, chúng tôi tiếp tục chống trả trong lúc bị đẩy lui về phía Sài Gòn.

    Tôi bảo binh sĩ: “Đừng lo lắng tình trạng đang xảy ra. Hãy cố chiến đấu. Hãy bắt địch phải trả giá đắt cho mọi trường hợp.” Các binh sĩ của tôi tiếp tục xoay trở, chiến đấu, phản công. Nhưng cuối cùng, họ kiệt lực.

    Chuẩn tướng Lý Tòng Bá trong một buổi khao quân. Ảnh tư liệu

    Có nhiều yếu tố khác bên ngoài việc chiến đấu. Lúc đó, binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã mắc một căn bịnh. Một căn bịnh tinh thần. Căn bịnh tinh thần đã ảnh hưởng đến họ. Vào giây phút chung cuộc ấy, căn bịnh phát ra từ việc các binh sĩ tin rằng họ bị lừa gạt, dối trá. Thử nhìn xem, họ đã lâm vào một tình trạng thật tệ hại. Muốn binh sĩ chiến đấu tốt, không thể có những người lãnh đạo như Nguyễn Văn Thiệu. Mỹ thì không còn hỗ trợ. Chính phủ cũng không giúp đỡ. Vậy họ phải chiến đấu và chết cho lý do gì?

    Vì thế, cuối cùng một số binh sĩ của tôi bắt đầu bỏ chạy. Họ nhuốm căn bịnh này rồi. Thấy vậy nhưng tôi cũng không thể làm gì khác. Cuối cùng đội quân tan rã. Tôi quyết định đi bộ từ củ Chi về lại Sài Gòn. Tôi cũng muốn tìm binh sĩ, tập hợp lại tại Hốc Môn mà tái lập phòng tuyến. Nhưng chưa kịp đã bị Cộng sản bắt. Đường từ Củ Chi về Sài Gòn bị chiếm khắp nơi rồi.

    Về việc tinh thần quân đội nhiễm độc thì phải thấy xã hội Việt Nam lúc ấy đã nhũng lạm rối ren lắm. Sự nhũng lạm rối ren này lan tràn vào quân đội, ảnh hường đến tác phong binh sĩ. Các cấp chỉ huy thì không có tinh thần chiến đấu. Gặp những trận khốc liệt, người ta không còn muốn đánh. Cái gì cũng lệ thuộc Mỹ. Không nhờ được Mỹ, người ta tháo chạy. Họ cũng đã nhuốm bịnh rồi.

    Tôi là người chiến đấu. Còn các lãnh tụ phải lo việc lãnh tụ. Phần tôi đã chiến đấu từ khi là người lính trẻ, và bây giờ đây, tôi hiểu ra rằng các lãnh tụ quân đội đã không làm tròn công việc của họ. Tôi làm nhiệm vụ của tôi, nhưng họ không làm nhiệm vụ của họ. Do đó, tôi có thể nói: Trên cấp bậc cao của quân đội chúng tôi, đã có những người không đúng chỗ nắm giữ chỉ huy.

    Bộ đội miền Bắc có mặt khắp nơi. Tôi bị thương ở chân. Họ bao vây tôi và số binh sĩ còn lại. Rất nhiều binh sĩ phải đầu hàng. Tôi bèn nói với người tùy viên ở bên tôi rằng: “Nhìn chừng tôi nhé, tôi làm gì thì anh làm nấy. Tôi làm bất cứ cái gì, anh cũng cứ làm y như vậy.” Khi địch quân bảo hạ võ khí xuống, nhiều binh sĩ của tôi tháo võ khí, bỏ xuống. Nhưng khi họ bảo binh sĩ đứng vào với nhau, thì tôi và người tùy viên lẻn xuống ruộng lúa.

    Chúng tôi ngâm mình dưới nước, chỉ hở mũi ngửa lên. Địch tưởng chúng tôi đã chết. Chúng tôi ngâm dưới nước ba giờ đồng hồ như thế, từ 3 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Rồi chúng tôi mầy mò trong bóng đêm, tìm đến một con rạch. Con rạch nhỏ này chảy đến cầu Hốc Môn. Chúng tôi lội xuôi con rạch, hy vọng đến được cầu Hốc Môn, từ đó tôi sẽ biết lối về Sài Gòn. Nhưng khi đang lội dưới rạch, tôi nghe hai bên bờ có tiếng người. Toàn lính Bắc Việt. Lúc đó tối trời, tôi tuồn ra khỏi lạch, tìm đường đất về Củ Chi. Vì tối quá, tôi quanh quẩn mãi trong một mũi tam giác. Không biết mình ở đâu. Sàigòn hướng nào. Trời lại mưa.

    Đến sáng, tôi vẫn còn người tùy viên bên cạnh, nhưng tôi không nhúc nhích được nữa. Cái chân bị thương càng lúc càng tệ. Tôi bảo người tùy viên cố đi kiếm thầy thuốc. Nhưng chưa kiếm được, chúng tôi đã lọt vào một đám năm sáu chục bộ đội miền Bắc. Từ xa cứ tưởng họ là lính miền Nam. Đến khi thấy vậy, tôi đành bảo người tùy viên: “Thôi bị bắt rồi. Không chạy nổi nữa đâu.”

    Bấy giờ quân phục tôi bê bết bùn, họ không nhận ra tôi là cấp tướng, không biết tôi là ai. Nhưng có một bà già thấy tôi. Bà già này bước lại, nói: “Chuyện chi vậy chuẩn tướng? Sao quần áo ông dơ dáy quá vầy nè?” Mấy người bộ đội đứng quanh đấy nghe được. Trước đó, họ chỉ tưởng tôi là một trung tá, không biết tôi đã là tỉnh trưởng Bình Dương.

    Họ đưa tôi vào nhốt trong một căn phòng chung quanh có rào kẽm gai. Tôi ngồi đấy, nghĩ rằng khi họ khám phá ra tôi, thế nào họ cũng xử tử. Nên khi mấy người lính của tôi hỏi có muốn viết thư nhắn vợ tôi không, tôi bảo: “Không. Tôi không muốn viết thơ cho ai cả.”

    Những người bộ đội bắt tôi là lính của ba sư đoàn đã đánh với Sư đoàn 25 của tôi. Họ bảo Sư đoàn Trưởng của họ sẽ đến gặp tôi. Họ nói ông ta muốn đến gặp người đã đương đầu với ông ta.

    Tôi nói “Tôi đã mất hết quân rồi, bây giờ các ông muốn làm gì cứ làm.” Khi viên Sư đoàn Trưởng Bắc Việt đến gặp, tôi nói: “Ông đã biết khi tôi bắt được lính của ông thì tôi đã đối xử như thế nào. Bây giờ tôi chỉ yêu cầu ông hãy đối xử với lính của tôi như thế. Tôi đã đối xử tử tế với tù binh các ông hơn là cách ông đối xử với tù binh chúng tôi.”

    Vì thế anh ta nói: “Chuẩn tướng, chúng tôi không có gì thù nghịch ông cả. Vì buổi đầu, bộ đội chúng tôi còn quá khích, nên có lẽ họ đã đối xử với ông không được tốt đẹp.”

    Tôi bảo ông ta: “Họ bắt chúng tôi ngủ trên sàn đất trong hàng rào kẽm gai. Tôi không thích việc đối xử với các binh sĩ của tôi như vậy.” Tôi không lo lắng gì cho bản thân tôi. Tôi nghĩ họ sẽ xử tử tôi, nên tôi chỉ quan tâm về việc đối xử với các binh sĩ của tôi thôi.

    Ngày mùng 3 tháng Ba, nghe tin đồn tôi bị giết ở Củ Chi, vợ con tôi đều rời Sài Gòn xuống Hậu Giang, kiếm được một tàu gỗ sang Mã Lai. Tại Mã Lai có vài người Mỹ biết tôi, họ nhận ra vợ tôi nên đã đưa vợ con tôi sang Mỹ, chuyện này một năm sau tôi mới biết. Khi rời Sài Gòn, vợ tôi đinh ninh tôi đã chết rồi.

    Tôi nghĩ tôi sẽ bị giết, do đó tôi không viết thư cho vợ tôi. Tôi sợ nếu có thư tôi, vợ tôi sẽ ở lại chờ, thôi đằng nào họ cũng giết, nên tôi không thư từ gì cả.

    Sau đó các binh sĩ của tôi đều được thả, nhưng họ giữ lại tất cả các sĩ quan. Họ đưa tôi về lại Củ Chi với các sĩ quan tham mưu của tôi. Lại một lần nữa, họ giam chúng tôi sau hàng rào kẽm gai. Lần này suốt một tháng. Sau đó họ đưa tôi về Sài Gòn làm kiểm điểm để đi “học tập,” rồi họ gửi tôi đến “trại học tập.” Lúc ấy tôi mới nghĩ rằng tôi thoát chết.

    Tôi bị gửi ra Bắc vào tháng Bảy năm 1975, mãi đến tháng Chạp 1987 mới được thả. Tôi đã phải làm lao động trong mười hai năm. Tướng Lê Minh Đảo ở cùng một trại với tôi.

    Tôi đã chiến đấu cho xứ sở tôi. Tôi đã làm bổn phận tôi. Tôi đã tận lực phục vụ. Và tôi đã thua, nhưng tôi vẫn hãnh diện. Khi không còn làm được công việc của tôi, tôi vẫn cố gắng chiến đấu. Tôi đã mất quân đội, nhưng tôi không hề bị đánh bại. Tôi đã chỉ làm công việc cho đất nước Việt Nam. Khi viên tướng Bắc Việt mà tôi đã đương cự hỏi tôi rằng: “Bây giờ ông nghĩ thế nào,” thì tôi nói: “Tôi là một người Việt Nam – Tôi mong được nhìn thấy một đất nước Việt Nam phú cường, một dân tộc Việt Nam tự do, hạnh phúc.”

    Nhưng tôi đã nghĩ: Việt Nam vẫn còn phải chiến đấu cho tự do. Cuộc chiến chưa tàn. Dân tộc vẫn muốn có tự do. Từ khi hãy còn là một thiếu úy cho đến nay, tôi vẫn nghĩ như vậy. Dân tộc Việt Nam đã cố giải quyết vấn đề bằng chiến tranh, nhưng cuộc chiến đã quyết định được những gì? Bây giờ miền Bắc thắng, và chúng tôi đã hy vọng đất nước Việt Nam được tốt đẹp. Việt Nam đã mất biết bao nhiêu người dân lương thiện, và bây giờ, thử nhìn vào đất nước mà xem. Tôi phải nói là đã không đạt được gì từ cuộc chiến. Cuộc chiến vẫn còn. Tôi vẫn nói với các thủ lãnh của đất nước ngày nay rằng “Tôi đã làm nhiệm vụ của tôi, và tôi đã thua. Quý ông bây giờ có thể làm bất cứ cái gì quý ông muốn. Nếu quý ông làm tốt, dân tộc tự do thịnh vượng thì tôi sẽ chẳng có điều gì để chống lại các ông cả. Nhưng bây giờ thử nhìn xem, đất nước này đã xảy ra những gì. Chiến thắng của quý ông giờ đây có ý nghĩa gì? Quý ông sẽ làm gì đây?”

    Xứ sở chúng tôi là một xứ sở nhỏ bé nghèo khó. Chúng tôi cần những trợ giúp bên ngoài. Bây giờ, có lẽ chúng tôi còn cần phải có các lãnh tụ mới. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc chăm chỉ, chịu khó và lương thiện. Dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng cho tự do và thịnh vượng. Dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng để trở lại một thành phần của cộng đồng thế giới. Tiềm lực là ở đấy. Nhưng vẫn lại xảy ra cùng một căn bịnh. Chế độ mới cũng đã mắc phải cùng một căn bịnh của chế độ cũ. Căn bịnh tham nhũng. Một căn bịnh xói mòn cả dân tộc này. Ngày nay nếu không ưa ai, không thích ai nói ra một điều gì, người ta cứ việc bỏ họ vào tù.

    Xã hội này là một xã hội thối nát. Người ta trở thành thối nát vì các lãnh tụ đã thối nát.

    Các binh sĩ của tôi bỏ chạy bởi vì họ đã nhiễm bịnh từ các thủ lãnh của họ và từ ở xã hội. Họ không còn muốn chết cho cái xã hội không xứng đáng ấy nữa. Cái linh hồn bịnh hoạn của xã hội này đã làm cho họ ghê sợ. Vậy nếu bắn một người lính bỏ chạy thì chỉ giết được một người lính, không giết được căn bịnh. Còn trừng phạt một người về chuyện tham nhũng, cũng chỉ trừng phạt một cá nhân, căn bịnh vẫn tiếp diễn thôi.

    Chưa bao giờ tôi nghĩ đến việc tự sát vì thua cuộc cả. Tại sao tôi lại phải tự sát? Chuyện ấy quá vị kỷ tự tôn. Tự sát! Tự sát có ích lợi gì? Nhiệm vụ của tôi là chiến đấu. Chiến đấu cho đến khi tử trận, hoặc đến khi bị cầm tù. Tôi là ai, nào có phải là một ông quan thời phong kiến cứ phải chết cho vua chúa đâu? Tôi đã chiến đấu cùng với các binh sĩ của tôi. Tôi đã không tử trận. Tôi chỉ bại trên chiến trường. Tôi bại trận, nhưng tôi vẫn còn sống sót.

    Bây giờ đây, tôi đang ở Sài Gòn, tôi không có chuyện gì làm. Tôi đã nạp đơn xin đi Mỹ để đoàn tụ với vợ và con gái tôi hiện ở tiểu bang Nevada. Một trong mấy con trai tôi là sinh viên đại học San Diego. Và con trai út của tôi hiện nay là một ngôi sao sáng về banh bầu dục tại đất nước Hoa Kỳ.

    “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” (Phần 11)

    Tiếp theo Phần 1Phần 2Phần 3Phần 4Phần 5Phần 6Phần 7Phần 8Phần 9Phần 10


    “Việc gì cũng cần phải có thời gian”


    Thiếu tướng Trần Công Mân (Bắc Việt)

    Tỉnh Phước Long được giải phóng vào đầu năm 1975. Sau khi giải phóng, cuộc tiến công Phước Long đã đặt cho chúng tôi hai hậu quả có thể xảy ra: Hoặc tỉnh này sẽ bị chiếm lại, hoặc sẽ mãi mãi nằm trong tay chúng tôi. Và chính đây là cuộc thử nghiệm đầu tiên của bộ đội chúng tôi nhằm đo lường tình thế miền Nam.

    Tướng Trần Công Mân (người ngồi đầu tiên, bên trái) thăm Thông tấn xã Giải phóng tại Mặt trận Tây Nguyên (tháng 4-1974). Ảnh tư liệu

    Để lấy lại Phước Long, chính quyền Nam Việt Nam cần phải có viện trợ quân sự cao độ của chính phủ Mỹ, nhưng chúng tôi nghĩ việc ấy không xảy ra, vì cuộc tiến công đã được thi hành sau vụ Watergate, lúc ấy đã có những dấu hiệu rõ rệt cho thấy công chúng Mỹ chán ngán chiến tranh rồi, quốc hội Mỹ đã bắt đầu lãnh đạm với Việt Nam rồi.

    Muốn thắng một cuộc chiến, người ta cần hiểu đối phương, cần hiểu chính quyền họ. Có thể những người thiết lập kế hoạch ở Hà Nội không có đầy đủ chi tiết hơn về sự vận hành của người Mỹ, nhưng với mô thức tổng quát mà chúng tôi đã thấy, đã hiểu, thì chúng tôi biết khá rõ về thái độ người Mỹ, do đó có thể dự tính về họ được.

    Về lính miền Nam thì tinh thần của họ gắn liền với sức mạnh Không quân Mỹ. Khi sức mạnh Không quân Mỹ giảm sút, tinh thần lính miền Nam cũng giảm. Về những người lính bình thường của miền Nam thì họ đã mệt mỏi chiến tranh, họ đã phải kéo dài một trận chiến không đi đến đâu. Nhưng đối với các sĩ quan quân đội miền Nam thì tinh thần họ cao hơn, vì họ biết nếu chiến tranh chấm dứt, sự nghiệp của họ cũng chấm dứt luôn.

    Cuộc tiến công Phước Long là một cuộc trắc nghiệm đã được tính toán hết sức thận trọng. Chúng tôi muốn thử cả chính quyền Mỹ lẫn chính quyền Việt Nam. Nếu tấn công Quảng Trị, hoặc Đà Nẵng chẳng hạn thì xa quá, chúng tôi không trắc nghiệm được phản ứng họ. Nếu tấn công Saigon thì gần quá. Cho nên Phước Long là một địa điểm chúng tôi cảm thấy có một khoảng cách vừa phải đối với Sai Gòn. Tất nhiên, đã không có phản ứng nào xảy ra. Đó chính là điều chúng tôi muốn tìm hiểu: Họ sẽ phản ứng, hay họ sẵn sàng buông xuôi? Câu trả lời là họ đã buông xuôi.

    Trước khi cuộc tiến công xảy ra, tôi đang ở Ban Mê Thuột, nhưng khi tiến công, tôi ở Hà Nội. Tôi đã ở Hà Nội cho đến hết cuộc chiến này.

    Về cuộc tấn công Ban Mê Thuột chúng tôi đã làm cho quân đội miền Nam ngạc nhiên nhưng mặt khác, chính họ cũng làm chúng tôi ngạc nhiên vì họ tan rã quá mau, chúng tôi không lường trước sự việc xảy ra như vậy. Chúng tôi cứ tưởng sau cuộc tấn công Ban Mê thuột, quân đội miền Nam sẽ tái lập phòng tuyến phản công. Chúng tôi dự liệu một trận mãnh liệt lâu dài hơn với quân đội miền Nam ở vùng chung quanh Ban Mê Thuột. Nhưng ngay cả trong trí tưởng tượng, chúng tôi cũng không hề nghĩ đến việc Thiệu đã phản ứng lại cuộc tấn công với cách như thế.

    Trong thực tế, phản ứng của Thiệu đã tạo một câu hỏi lớn trong trí óc chúng tôi, làm chúng tôi tự hỏi phải chăng đây là một cái bẫy, một chiến thuật khôn khéo để nhử chúng tôi. Không thể nào chúng tôi tin nổi những chuyện ông ta đã làm. Chính vì hành vi đó của ông Thiệu, chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải đương đầu một chiến thuật phòng thủ cực kỳ sáng tạo mới mẻ, do đó trước hết các cấp chỉ huy của chúng tôi phải tiến lên hết sức cẩn thận, xem chừng đừng rơi vào bẫy.

    Trong mấy ngày đầu, chúng tôi đinh ninh quân đội miền Nam đã hoạch định một vài ngạc nhiên lớn dành cho chúng tôi. Nhưng đến khi Thiệu rút quân ở Pleiku, đột nhiên chúng tôi nhận thức được là chẳng có cạm bẫy, chẳng kế hoạch gì, miền Nam đã bỏ cuộc, không chiến đấu nữa. Lúc ấy là lúc chúng tôi quyết định đuổi theo càng nhanh càng tốt.

    Lúc đầu, khoảng những năm 1970, chính phủ Mỹ sử dụng máy bay B-52 làm chúng tôi lo lắng. Nhưng trong năm 1975 vấn đề ấy không còn nữa, vì lẽ vào năm 1972 người Mỹ đã không thành công trong việc đánh bom chúng tôi ở miền Nam, nên chúng tôi biết ít khi người Mỹ thử lại lần nữa.

    Sau khi chúng tôi đã giải phóng xong miền Trung, thì có vài cuộc vận động ngoại giao giữa chính phủ Mỹ và Hà Nội nhằm mục đích làm chậm những cuộc tiến công của quân đội miền Bắc.

    Việc này không thực hiện trực tiếp giữa đôi bên, mà qua một số nước khác, qua những người trung gian. Người Mỹ yêu cầu chúng tôi cho quân đội đi chậm lại để họ có đủ thì giờ hoàn tất cuộc rút quân khỏi Sai Gòn. Họ cảnh cáo nếu chúng tôi không thực hiện như thế, họ sẽ can thiệp vào Việt Nam trở lại và sẽ tiến hành những cuộc tấn công đắt giá cho chúng tôi. Đấy là những gì chúng tôi đã được thông báo.

    Tuy nhiên chúng tôi không còn coi điều ấy quan trọng nữa. Đấy chỉ là một sự đe doạ vô nghĩa vào năm 1975, chúng tôi biết rõ như thế. Người Mỹ sẽ không còn quay trở lại.

    Vì thế, gác bỏ những cảnh cáo nhằm làm chậm cuộc tiến quân, ngược lại, chúng tôi còn cố tiến nhanh hơn để khỏi đánh vào mùa mưa. Chúng tôi muốn đến Sai Gòn trước khi mùa mưa khởi đầu. Nếu có một lúc nào cuộc tiến công có vẻ chậm lại, đấy chỉ vì nhu cầu chiến thuật dàn quân mà thôi.

    Tôi không ở trong một số ít người có đặc quyền được biết điều này, tuy nhiên quan niệm của tôi là cuộc tiến công hoàn toàn do chúng tôi tiến hành, tuyệt đối không ai khác, tuyệt đối không có Liên Xô hay Trung Quốc liên hệ gì đến việc hoạch định cả.

    Sau hiệp định Paris, có việc rút giảm tiếp vận vũ khí từ các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng Trung Quốc lại khác, vì trước cả hiệp định Paris, Trung quốc đã ký hiệp định Thượng Hải với Mỹ. Dựa trên sự công bố hiệp định này thì rõ ràng Trung Quốc không hỗ trợ chúng tôi và không thực sự muốn chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Trung Quốc không thực sự hài lòng vui vẻ gì về việc cuối cùng trận chiến đã được giải quyết, họ không hài lòng vui vẻ gì về cuộc Đại thắng mùa Xuân của chúng tôi.

    Các viên chức cao cấp Nam Việt Nam bấy giờ đã cố gắng nhằm đạt đến một thoả thuận trong việc kết thúc cuộc chiến. Khi thấy rõ sẽ thua, đột nhiên họ muốn có chính phủ liên hiệp. Nhưng chúng tôi đã ra lệnh bộ đội cứ gia tăng áp lực để đạt chiến thắng càng nhanh càng tốt, chúng tôi không chú ý đến bất cứ một hình thức chính phủ liên hiệp nào ở Saigon. Đã quá muộn rồi.

    Chúng tôi chỉ nhằm đánh quân đội miền Nam, chúng tôi không muốn làm bất cứ một hành động nào liên hệ đến người Mỹ. Vì thế chúng tôi không đụng chạm gì đến người Mỹ, tuyệt nhiên không bắn họ. Chúng tôi chỉ muốn người Mỹ ra khỏi đất nước chúng tôi càng sớm càng tốt, ngõ hầu chúng tôi có thể dốc toàn lực vào thanh toán quân đội miền Nam.

    Chúng tôi nghĩ toà Đại sứ Mỹ là cánh tay của Ngũ Giác Đài, nên chúng tôi cho rằng biện pháp tốt nhất là để tất cả người Mỹ ra đi từ Tòa Đại sứ mà hồi hương. Chúng tôi không làm thoả thuận nào với miền Nam về bất cứ điều gì. Chúng tôi không hề thoả thuận gì về việc Không quân của họ ở lại Saigon. Tất nhiên là không. Thực tức cười!

    Mặc dầu ở Hà Nội, nhưng tôi vẫn được thuyết trình hàng giờ về những gì xảy ra chung quanh Sai Gòn. Các tin tức về việc Sai Gòn sụp đổ đã được thông báo cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp ở đây trước. Tôi không phải là người duy nhất được nghe tin. Tất cả mọi người đã nhận được tin ấy vào khoảng buổi trưa ngày ba mươi. Tất cả đã tràn ra ngoài đường, vô cùng sung sướng. Chiến tranh đã dứt.

    Chúng tôi cử hành liên hoan mừng Giải phóng Sai Gòn. Thực tình chúng tôi nghĩ rằng còn phải khó khăn chứ không ngờ dễ dàng như vậy. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên.

    Việt Nam đã lâm vào tình trạng chiến tranh quá lâu, mọi người đều mong mỏi chiến tranh kết thúc nhưng chẳng ai biết bao giờ mới chấm dứt. Vì thế chiến thắng cuối tháng Tư là nỗi ngạc nhiên lớn cho tất cả mọi người. Ai nấy đều vui mừng. Mọi người chạy cả ra đường hò reo, hô khẩu hiệu, ca hát nhảy múa.

    Lúc ấy tôi bận quá, không thể về nhà được. Tôi là Tổng Biên tập tờ Nhân Dân nhật báo nên phải viết bài cho tờ báo ấy. Liên hệ vào cuộc chiến này là một lầm lẫn của chính phủ Mỹ. Họ đã không nhận thức được sức mạnh thực của những người mong muốn thống nhất và giải phóng đất nước họ.

    Chúng tôi không đặt trách nhiệm cho nhân dân Mỹ về những gì xảy ra ở Việt Nam. Những thanh niên chiến binh Mỹ được gửi đến chiến đấu ở đây đã bị chính phủ họ lừa dối để tham dự vào việc sai trái. Khi những người này đến Việt Nam bắn giết, thực sự họ không rõ họ đã làm những gì.

    Giờ đây chiến tranh đã qua. Giữa dân tộc của đất nước quý ông và dân tộc đất nước chúng tôi không còn thù hận gì nữa. Không lý do gì để chúng ta không thể làm bạn với nhau được.

    Chính phủ Mỹ đã gây ra cuộc chiến, nên chính phủ Mỹ cần có nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ tài chánh đối với nhân dân Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam không chạy theo xin xỏ những chuyện này. Tuy nhiên tốt hơn hết, ngay bây giờ chính phủ Mỹ nên xúc tiến việc thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam. Chúng tôi không yêu cầu gì hơn.

    Trận chiến này chính là trận chiến dài nhất trong lịch sử Mỹ. Trận chiến này cũng là trận chiến dài nhất lịch sử Việt Nam, đã đem đến ba mươi năm đau đớn xót xa, khốn khổ cho người Việt. Tuy vậy, vào lúc kết thúc, nó cũng đem đến được một điều tốt đẹp, đấy là cuối cùng, đất nước đã thống nhất, độc lập. Cho nên cuộc chiến cũng đã đem lại nhiều kết quả và cảm xúc lẫn lộn. Nhân dân chúng tôi mất mát nhiều mạng sống, nhiều của cải nhưng nhân dân chúng tôi đã đạt độc lập, thống nhất, hòa bình, nên cuối cùng cuộc chiến cũng đáng giá cho những mất mát ấy.

    Cũng xin đừng quên đây là một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn mà vượt qua được một quyền lực lớn lao, giàu có. Cho nên cuộc chiến cũng đáng giá cho những mất mát ấy.

    Có lẽ chính đây là một đặc tính của dân tộc Việt Nam, ngày nay chúng tôi không hề mang niềm cay đắng nào đối với người Mỹ. Chúng tôi đã từng phải trải qua rất nhiều năm chinh chiến với nhiều thế lực ngoại quốc đã muốn chiếm đóng Việt Nam. Nhưng khi cuộc chiến đã xong, không lý do gì để ôm mãi những mối hằn học nữa.

    Đối với những người Mỹ đã phản đối, đã không cộng tác với cuộc chiến chống Việt Nam, như Jane Fonda, Tom Hayden, Harrison Salisbury, họ đã làm những gì đúng đắn, người Mỹ cũng không nên hằn học với họ. Nếu người Mỹ vẫn duy trì chính sách mà người Mỹ đã thiết lập từ năm 1945 với ông Archimedes Patti của O.S.S. đối với dân tộc Việt Nam thì cuộc chiến này đã không bao giờ xảy ra. Nếu quần chúng Mỹ được thông báo rõ về các mục tiêu và ước vọng của dân tộc Việt Nam, thì chắc chắn họ đã phải hỗ trợ cho các nỗ lực của chúng tôi trong công cuộc thống nhất đất nước chúng tôi.

    Dù sao đi nữa, nếu chính phủ Mỹ có thể thoải mái dễ dãi hơn trong chính sách cho tin tức được loan chuyển tự do, không có thành kiến chống chính phủ Việt Nam, thì con người có thể hiểu rõ hơn về nhau, về các vấn đề của đất nước này ngày hôm nay.

    Tôi hiểu người Mỹ cảm thấy không thoải mái với người Nga tại đây. Tuy nhiên quả có một vấn đề trong việc trình bày tin tức từ Việt Nam. Quần chúng Mỹ đã được bảo rằng ngày nay Việt Nam là một thuộc địa của Nga, nhưng nếu có những tin tức thông thạo chính xác thì quý vị sẽ thấy chúng tôi độc lập. Chúng tôi không thuộc về ai ngoài chúng tôi. Chính phủ Mỹ sợ người Nga hơn sợ người Tàu. Tôi không rõ tại sao. Cả hai đều là Cộng sản. Tôi không rõ tại sao vậy. Sẽ cần phải có thời gian để chính phủ Mỹ thoát ra được cảm giác thù nghịch Việt Nam. Việc gì cũng cần phải có thời gian.

    Nguồn: Blog Phan Ba

    Báo Tiếng Dân
Working...
X