Announcement

Collapse
No announcement yet.

Cầu Ba Cẳng

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Cầu Ba Cẳng


    Cầu Ba Cẳng là một cây cầu rất độc đáo của Sài Gòn xưa. (Hình: Tài liệu)
    Đăng Thuyên
    SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nếu có dịp xem phim “The Quiet American” (Người Mỹ Trầm Lặng) chiếu năm 1958 do đạo diễn Joseph L. Mankiewicz thực hiện với người đẹp Ý Giorgia Moll đóng vai Phượng, người xem sẽ thấy một cảnh tượng rất đáng chú ý: cảnh “người Mỹ trầm lặng” Pyle nằm chết sấp mặt trong làn nước dưới chân một chiếc cầu có hình dáng kỳ lạ với cái thành cong cong.

    Chiếc cầu ấy đang trong một dịp lễ nào đó với nhiều đèn lồng treo hai bên mép cầu và vài chiếc đèn kéo quân treo lơ lửng. Trong truyện “Người Mỹ Trầm Lặng” của nhà văn Anh Graham Green, anh chàng Pyle chết dưới chân cầu Đakao và “chết vì bùn sông Đakao.” Nhưng chiếc cầu được chọn để quay trong bộ phim nói trên, chuyển thể từ cuốn truyện này, không phải là cầu Đakao ở Quận Nhứt mà là chiếc cầu Ba Cẳng, một chiếc cầu độc đáo do người Pháp xây dựng năm 1914 trong Quận 6 ngày nay và từng có tên là “Pont des 3 arches” (cầu có ba nhịp vòng), từng được gọi là cầu Khâm Sai.


    Có lần ngồi ăn mì ở khu chợ Thiếc, tôi nghe một ông “Tiều nán” (người gốc Triều Châu) khoảng hơn 60 tuổi vừa lùa mì vừa càu nhàu bằng tiếng Việt lơ lớ: “Có cái cầu Ba Cẳng còn không giữ được thì nói gì!” Không biết ông tiếc rẻ điều gì nhưng nó cũng phải đáng tiếc như cái cầu Ba Cẳng, cái cầu cổ cũ kỹ phía sau chợ Kim Biên đã phá bỏ năm 1990? Phải chăng ông đã gắn bó với nó, từng qua lại nhiều lần, đi từng bậc cầu thang để xuống bến Bãi Sậy (nay là đường Bãi Sậy), bến Nguyễn Văn Thành (đường Phan Văn Khỏe) hay bến Vạn Tượng (đường Vạn Tượng)?

    Cây cầu được xây ở vị trí ngã ba của con kênh Hàng Bàng đổ ra rạch Tàu Hũ nên người Pháp đã thiết kế có ba chân đồng thời cũng là ba bậc thang lên xuống. Với cái tên thuần Nam Bộ, cầu Ba Cẳng hẳn không là tên chính thức, nhưng rất gợi hình. Vài tài liệu cho là ban đầu nó là cầu sắt lót ván nhưng đã được xây lại bằng xi măng sau khi bị sập vì dân chúng lên đứng xem nhà cháy, do công ty xây dựng Brossard et Mopin thực hiện bằng tiền tài trợ từ gia đình ông Trương Văn Bền, chủ hãng Xà Bông Cô Ba, khởi nghiệp bằng cửa hàng tạp hóa nhỏ bên cạnh kinh Quai du Cambodge gần đó.
    Đây là một cây cầu dành riêng cho người đi bộ, được công ty Brossard et Mopin xây dựng đầu thế kỷ 20. Cầu có tên tiếng Pháp là “Pont des 3 arches,” nhưng người dân quen gọi là “cầu Ba Cẳng” do hình dáng đặc biệt của nó. (Hình: Tài liệu)

    Hồi còn nhỏ, đến chơi vài ngôi nhà khá giả trong xóm, thỉnh thoảng tôi thấy có treo tranh trên tường. Ngoài loại tranh sơn mài “cá vàng,” loại tranh thường thấy là tranh vẽ bến thuyền và xóm lao động bằng sơn dầu, vẽ bằng bay, chi tiết không rõ theo kiểu ấn tượng. Sau này, vài họa sĩ lớn tuổi kể là ngày xưa họ thường vẽ ký họa phong cảnh ở các chợ Cầu Muối, cầu Ông Lãnh và cầu Ba Cẳng. Trong số đó, cầu Ba Cẳng là địa điểm khá thu hút vì cầu không có xe chạy nên không bị cản trở việc đứng quan sát trên cầu, có thể nhìn bao quát và chi tiết cảnh làm ăn, sông nước và cảnh mua bán phía dưới.

    Một họa sĩ kỳ cựu trường Mỹ Thuật Gia Định, Hà Cẩm Tâm, viết về người bạn cũng là họa sĩ, Trần Quang Hiếu, đi tìm nguồn cảm hứng ở cái cầu này bằng văn miêu tả tỉ mỉ: “Hiếu thích nhất là cầu Ba-Cẳng, hình vòng cung ba nhánh cao như Khải Hoàn Môn, ngự trên ngã ba sông, xi măng cốt sắt phong rêu thiên cổ, dưới rạch là các thuyền ghe đủ kiểu, đủ cỡ, đủ màu vừa là nhà để ở cho cả gia đình vừa là phương tiện giao thông. Các chiếc ghe chài khổng lồ chở các khạp, lu, hủ, chậu, bình, chồng chất đầy khoang đi giao hàng khắp nơi, tận miền Hậu Giang xa lắc cả mấy tháng mới trở về bến. Dài theo bờ rạch là nhà sàn gần xa, lô nhô cao thấp, cầu ván, cầu tre lắc lẻo đi luồn sâu vào các ngõ ngách hẹp té chỉ vừa một người đi lọt. Trên bờ là vô số các loại đồ gốm: từ cái muỗng, cái chén, tô, dĩa cho đến các lu mái dầm hai người ôm chưa giáp vòng để chứa nước mưa, màu đồng ten xanh như đồ cổ, các khạp da bò đựng gạo màu vàng nâu, vàng đất, vàng ánh, men chảy chập chùng như màu đồng thời Khang Hi.
    Do nằm ngay ngã ba rạch, cầu được thiết kế với ba chân tỏa theo ba hướng. Các chân này đồng thời là ba lối bậc thang đi lên, xây bằng bêtông cốt thép. Đối với cư dân trong khu vực, cầu Ba Cẳng là lối đi bộ ngắn và tiện lợi sang bên kia rạch, đồng thời cũng là nơi hóng gió, hàn huyên, hò hẹn… (Hình: Tài liệu)

    Các trảng đựng nước, chậu trồng hoa đủ cỡ lớn nhỏ, thấp cao với màu ngà, chất men rạn, màu men xanh độc đáo của trường Mỹ Nghệ Biên Hòa. Cả vùng cầu Ba Cẳng như một bảo tàng viện là quê hương của dân trường vẽ. Trên thổ mộ dưới thuyền nan, cảnh và người linh động như phim hoạt họa. Từ bà Năm bán sương sa hột lựu, con Tám chè thưng cho đến các bạn hàng buôn gánh bán bưng, mấy anh lực lưỡng phu khuân vác, từ các em bé bé quần xà lỏn lòi rốn ở trần nô đùa trong xóm cho đến các con ngựa chân ngắn bụng tròn kéo xe thổ mộ đều rất là hiền lành và thật là dễ thương. Thế mà người đời gán cho hỗn danh ‘Dân chơi cầu Ba Cẳng’ là cái loại dân ngoài vòng pháp luật. Loại dân ghê tởm nhất.

    Phải thấy tận mắt, nghe tận tai, sống tận tình mới biết thực hư, mới ngộ ra được cái đẹp. Trần Quang Hiếu đã sống tận tình, vẽ tận mạng, chơi chí tử cho đến phút chót của cuộc đời anh ta. Nó đúng là nghệ sĩ thứ thiệt và chính là dân chơi cầu Ba-Cẳng.” (*)

    Đây là một đoạn miêu tả hiếm và hay về chiếc cầu này. Qua thời gian, chiếc cầu hư hao dần, không còn được nhiều người quan tâm vì nói cho cùng nó chỉ còn là nơi hóng gió hay tụ tập, không thật sự cần cho người dân quanh vùng vì các con kinh bị lấp, qua lại dễ dàng hơn.

    Khoảng đầu thập niên 1960 và trước đó nhiều năm, ghe thuyền từ miền Tây vẫn thường chở hàng ra kinh Tàu Hũ rồi lên bến, có khi ra tới chợ Bình Tây theo bến Nguyễn Văn Thành (nay đã lấp thành đường Phan Văn Khỏe), đi ngang cầu Palikao (nay không còn).
    Nằm ở nơi giao thương đường thủy tấp nập của Chợ Lớn xưa, nên cầu chỉ có một vòm nhịp nhằm tạo khoảng không cho ghe thuyền qua lại. Và đây cũng là nơi dân chơi, các băng nhóm giang hồ ở vùng Chợ Lớn thường xuyên tụ tập. (Hình: Tài liệu)

    Anh Ngọc Ẩn, một cư dân trên Bến Cát từng sống ở khu Cầu Ba Cẳng, kể là cách nay 60 năm, nhờ địa thế trên bến dưới thuyền, khu này là nơi bán dầu chai dùng để trét ghe, giữa bến Phan Văn Khỏe là chợ trái cây, song song bến này là dãy chòi của những người buôn bán từ miền Tây lên. Họ cất những căn nhà tạm bợ bằng gỗ, mái lợp tôn, bề ngang chỉ hai mét. Nhánh cầu thứ hai đi xuống bến Bãi Sậy (nay là đường Bãi Sậy). Lưu dân ở các nơi tụ về khi chiến tranh bắt đầu lan rộng ở miền Tây. Họ về Chợ Lớn làm thuê làm mướn, sống cuộc sống tạm bợ và thiếu vệ sinh. Đa số cư dân quanh khu cầu Ba Cẳng lại là người Việt dù nằm lọt thỏm trong khu Chợ Lớn với đa số người Hoa.

    Anh Ẩn, lúc đó là chú nhóc hơn mười tuổi thường được gọi là “Ẩn lùn,” bỏ nhà đi bụi đời khi cha tham gia chống ông Diệm và bị đi tù. Anh kiếm sống như mọi đứa con nít bụi đời khác, như làm thuê lặt vặt, có khi ăn cắp vài món để bỏ bụng… rảnh thì lên cầu Ba Cẳng chơi đánh bài, nghỉ mát vì chung quanh còn nhiều cây xanh. Trên cầu, Ẩn nhìn xuống thấy nhiều ghe xuồng chở lu hũ, gốm Lái Thiêu, Biên Hòa, lu da lươn về chất rất nhiều để đưa đi phân phối.

    Dòng kinh lúc đó chưa đến nỗi ô nhiễm nên không khí cũng còn dễ chịu, cảnh vật đông vui mà không quá xô bồ. Người Hoa ra mua bán, quen mặt, không mấy khi cho mượn tiền vì biết không trả nổi nhưng sẵn sàng cho một số tiền nhỏ, rất dứt khoát. Những lúc có tiền rủng rẻng, Ẩn cùng vài đứa bạn chui vào mấy rạp hát gần đó, như rạp Đô Thành (gần tiệm xà bông Cô Ba), rạp Casino Chợ Lớn, Đại Quang… coi phim Ấn Độ, phim Nhựt Bổn.
    Rạch Bãi Sậy dưới chân cầu Ba Cẳng. Sau gần một thế kỷ tồn tại, cầu Ba Cẳng đã xuống cấp nặng nề và bị sập vào năm 1990. Từ đó, một hình ảnh quen thuộc của Sài Gòn xưa đã vĩnh viễn biến mất. (Hình: Tài liệu)

    Thỉnh thoảng dân ở đó xôn xao vì có một cô nào đó nhảy xuống dòng kinh tự tử vì tình. Gần Tết lại có một bà xẩm đi vòng vòng dưới chân cầu, phát chẩn cho người nghèo bằng tiền, không bao giờ cho gạo hay quần áo. Lúc đó, chợ Kim Biên còn là bãi đất trống. Khi người Mỹ đổ vào miền Nam, mở các cửa hàng PX thì chợ Kim Biên trở thành nơi tập trung hàng PX và đổi đô la đỏ. Sau chợ này biến thành chợ bán hóa chất như bây giờ.

    Lưu dân thời đó ngày Tết ăn uống đơn giản nhưng không thể thiếu món cờ bạc, thì cầu Ba Cẳng là nơi lý tưởng để đánh bài tứ sắc, bài cào, tài xỉu, lắc bầu cua… Quán cà phê cũng giống như các quán khu chợ búa, ghế cao, khách đến ngồi kiểu nước lụt, cà phê pha bằng vợt. Ẩn và đám bạn nhỏ mỗi ngày ra kinh Tàu Hũ hoặc dưới chân cầu Chà Và tắm vì nước còn sạch chưa ô nhiễm.

    Thích nhất thời đó là quán cơm xã hội rất nhiều, chỉ cần 5 đồng là nhận được một khay thức ăn, xúc cơm bao nhiêu cũng được. Con nít bụi đời sống len lỏi chui rúc vì cảnh sát vẫn riễu khắp nơi, đứa con nít nào ló ra đường mà không đi học, không có nhà cửa thì bắt đưa vô trại giáo huấn. Đứa nào cầm tiền nhiều cũng bị hạch hỏi nghi là chôm chỉa đâu đó.

    Đến sau năm 1963, ba anh Ẩn trở về và đưa anh về nhà. Những năm sau 1965, chiến tranh lan rộng, dân cư miền Tây bỏ hết ruộng vườn về tị nạn chiến tranh, sống lây lất ở đô thị. Khi quay lại lúc gần đi lính, anh Ẩn thấy khu cầu Ba Cẳng ngày xưa đã lộn xộn hơn rất nhiều, dân tị nạn ở đông đúc, những con kinh ngày càng thu hẹp vì rác và những căn nhà tạm bợ cất trên dòng kinh. Cây cối xanh tươi quanh đó cũng nhường chỗ cho nhà cửa. Dưới con kinh tắc nghẽn, không còn thấy những con thuyền.

    Bây giờ, anh Ẩn vẫn thỉnh thoảng chạy mấy chục cây số từ Bến Cát về mua hàng ở Chợ Lớn và đi ngang khu cầu Ba Cẳng, nay chỉ còn lại một cái tên âm vang trong trí nhớ. Bao nhiêu nước từng chảy qua dưới nhánh ba cái cầu này cũng như qua đời anh từ gần 70 năm nay, cho đến khi các con kinh, từ kinh xanh thành kinh đen, và nay đã lấp thành đường. (Đăng Thuyên) [qd]

  • Font Size
    #2
    Hỗn danh “dân chơi cầu Ba Cẳng” ra đời trước năm 1975 và lưu truyền đến nay để nhắc về một lớp đàn anh “ngang trời dọc đất” nhưng dám chơi mà không dám chịu, đụng chuyện thì tránh né. Hỗn danh này còn được gắn cho một tay anh chị do Mã Ban cầm đầu một nhóm ăn chơi thuở xưa, nhưng sau đó gác kiếm, rút lui khỏi giới giang hồ về với đời thường một cách lặng lẽ.


    Trước hết phải khẳng định cầu Ba Cẳng là một cây cầu có thật. Theo bút ký của nhà văn Trương Đạm Thủy, vùng Q.6, Chợ Lớn cách đây mấy mươi năm có một cây cầu bằng sắt có hình dạng rất lạ, có ba chân. Vì cầu chẳng có cái tên chính thức nào như cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận… nên người dân lấy hình mã đặt tên, tức cầu Ba Cẳng. Ngày ngày, dân bụi đời ưa tụ tập ở đó để cờ bạc, đá gà, ăn nhậu gây mất trật tự và vẻ khó coi cho khu Chợ Lớn mới. Đêm đêm dân chơi đi… “bắt bò lạc” là mấy em gái ăn sương cũng thường coi cầu Ba Cẳng là điểm hẹn để tìm một đêm vui. Vì thế mà cái tên “cầu Ba Cẳng” lần hồi đã trở nên nổi tiếng. Đi xa hơn, loại dân chơi nào bị coi là chơi không đẹp, chơi nhếch nhác, chơi thiếu… mỹ quan thì bị thiên hạ gán cho cái tên “dân chơi cầu Ba Cẳng”.

    Còn theo ghi chép của Hội những người yêu Sài Gòn, trước 1954, thành phố Sài Gòn thường quen được gọi là “Sài Gòn – Chợ Lớn” để phân biệt như hai khu vực. Một vùng do đại đa số người Việt sinh sống, còn vùng kia là người Việt gốc Hoa buôn bán làm ăn phát triển (từ Q.5 tới Q.11, trừ Q.9 thành lập sau này thuộc vùng Sài Gòn).

    “Cầu Ba Cẳng” thuộc vùng Chợ Lớn bắc qua một cái vàm (ngã ba kinh rạch) của kinh Hàng Bàng, do quan Khâm sai người Pháp (không nhớ tên và thời điểm) ra lệnh xây dựng. Lúc đầu mang tên cầu Khâm Sai. Do một trận hỏa hoạn lớn ở đường Gia Long, người ta đổ xô lên cầu chen lấn, đứng xem quá đông khiến cầu bị sập. Sau đó cầu được xây lại thành ba nhánh bằng bê tông cốt sắt vững vàng hơn. Dân chúng trong vùng không còn gọi là cầu Khâm Sai nữa mà gọi theo hình dáng xây dựng là “cầu Ba Cẳng”. Cầu nằm cuối đường, phía sau chợ Kim Biên P.13, Q.5, thuộc Chợ Lớn. Cầu Ba Cẳng nay không còn nữa. Xưa, cầu ở đầu đoạn rạch Bãi Sậy, sau đó được lấp thành đường Bãi Sậy và Phan Văn Khỏe, Q.6. “Cầu Ba Cẳng” nằm ở khúc rẽ phải ra kênh Tàu Hũ, hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn Văn Thành, còn chân kia ở bến Vạn Tượng. Cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập hoàn toàn.

    Hỗn danh “dân chơi cầu Ba Cẳng” ngụ ý là dân giang hồ không có tính toán, mưu lược, chơi ẩu, cứ thấy có chuyện gì lạ là nhào ra xía vô, không nghĩ gì tới lợi hại, như kiểu thấy hỏa hoạn ở tuốt đường Gia Long rồi kéo nhau lên cầu coi cho thỏa ý tò mò tới độ cầu bị sập, sinh ra tai nạn. Khi nói “dân chơi cầu Ba Cẳng” còn một ngụ ý khác nữa, ám chỉ là dân giang hồ dám làm mà không dám chịu, chuyên tránh né, không dám hiên ngang chống đỡ với đối lực, từ câu chuyện kể. Năm 1955, có một đám côn đồ sau khi làm việc phi pháp bị hai cảnh sát rượt đuổi. Chúng chạy lên cầu Ba Cẳng. Vì cầu có ba hướng lên xuống mà cảnh sát chỉ có hai người, do đó chỉ chặn được hai ngả. Bọn này cứ như chuột, lúc nào cũng có ngả hở thoát thân. Tóm lại, các dạng dân chơi chuyên lừa đảo để kiếm tình, kiếm tiền, dụ khị đàn ông, lừa bịp đàn bà, theo các dạng bát nháo trên đều có thể liệt vào hạng “dân chơi cầu Ba Cẳng”.

    Sài Gòn trước 1975, dân chơi tứ chiếng tràn ngập và là mảnh đất anh tài hội tụ. Lớp người Hoa thời kỳ đó rất nhộn nhịp, bởi Hòn ngọc Viễn Đông lúc đó đâu đâu cũng có những phố xá ăn chơi sành điệu bậc nhất. Sài Gòn lúc đó như chiếc bánh ngọt được các băng nhóm giang hồ chia nhỏ thành lãnh địa riêng rồi phân nhau hùng cứ. Vì vậy, các bậc đàn anh, đàn chị giang hồ nổi lên cát cứ khắp nơi. Chính quyền vô cùng đau đầu, đã lập ra danh sách đen các bậc anh chị có “số má”, với những hỗn danh có tiếng vang để lùng bắt nhằm ổn định an ninh trật tự.

    Theo nhiều tài liệu, thời kỳ đó một nữ A xẩm Tiều nán (người Triều Châu) ở gần Chợ Lớn mới (chợ Bình Tây, Q.6, TP.HCM ngày nay) góa bụa giữa lúc nửa chừng xuân. A xẩm đi nấu ăn cho nhà giàu kiếm tiền nuôi đứa con trai lớn tên Mã Ban ăn học. Mã Ban học tiểu học rồi trung học dành cho học sinh người Hoa ở Chợ Lớn. Tuy nhiên, thay vì học hành chăm chỉ thì Mã Ban lại lao vào ăn chơi khiến cho người mẹ nghèo rất buồn khổ. Bị mẹ la mắng nhiều, thương mẹ, Mã Ban quyết định tự lập kiếm tiền để ăn chơi. Không tiền, không nghề nghiệp, Mã Ban thu thập đàn em để làm bảo kê, chuyên xử lý các băng nhóm quậy phá. Có tiền rủng rỉnh, Mã Ban cùng đám đàn em lao vào những cuộc ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Thời gian sau, Mã Ban được một đại gia người Hoa quý mến, gả con gái cho. Nhằm giúp Mã Ban trốn quân dịch, người cha vợ lắm tiền nhiều của của Mã Ban đã đút lót cho viên chức cao cấp để Mã Ban trở thành cảnh sát viên của Tổng nha cảnh sát. Từ đó, Mã Ban nổi lên với những cuộc ăn chơi đàn đúm, sử dụng súng rulo bá phát và luôn có những người đẹp nổi tiếng vây quanh.

    Sau khi Sài Gòn phỏng giái, năm 1984, Mã Ban đã rũ bỏ nghiệp giang hồ, quay về cùng vợ con, mở nhà hàng ăn uống ở Chợ Lớn. Tuy nhiên, do vẫn còn máu chơi hào phóng nên chẳng bao lâu buôn bán lỗ lã, dẹp tiệm. Từ đó, bắt đầu cuộc sống khó khăn, vợ bệnh, con đau, không tiền bạc, Mã Ban từ một tay anh chị phong lưu trở thành tay trắng. Dân chơi “cầu Ba Cẳng” lại lưu danh thêm một đàn anh vào danh sách để nhắc nhớ quá khứ oanh liệt Sài Gòn – Chợ Lớn ngày nay.

    Sao Khuê

    Comment


    • Font Size
      #3
      Click image for larger version  Name:	cau-3-cang.jpg?w=500.jpg Views:	1 Size:	27.0 KB ID:	38751

      Người quảy gánh là ông thợ nhuộm ... dạo ...
      Click image for larger version  Name:	xOMeZsL.jpg Views:	1 Size:	39.9 KB ID:	38752


      Click image for larger version  Name:	oBDe6H6.jpg Views:	1 Size:	53.0 KB ID:	38753

      Click image for larger version  Name:	6441ojj.jpg Views:	1 Size:	45.5 KB ID:	38754


      Ghe chài đã từng tới đây thì sông không nhỏ ...
      Ghe chài là ghe chở hàng lớn nhứt của miền Nam ... sức trọng tải trung bình ~200 tấn ... nhưng ... đến 1965 thì ... đã cạn không còn nước ... chiếc xuồng cũng không có ...
      Nhà sàn mái lá ộp ẹp là nhà của người tản cư ...

      Comment

      Working...
      X