Announcement

Collapse
No announcement yet.

Tiếng Việt - Chữ Việt

Collapse
X
Collapse
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Font Size
    #1

    Tiếng Việt - Chữ Việt

    Lụm được cái nầy (nguyên văn trong post sau) trong lưới đem để đây ... ... vì chẳng biết để đâu hợp lý hơn ...
    chỉ là chút tài liệu tham khảo ... học hỏi ... không nói là đúng hay sai ... chẳng chê mà cũng chả khen ...
    Attached Files

  • Font Size
    #2
    Bảng đối chiếu từ ngữ của Việt Cộng và Việt Nam

    Lưu ý! Hãy cho Phổ Biến Khắp Nơi Rộng Rãi. (bc)
    HƯƠNG saigon

    Kính thưa quý vị,

    Hương Saigòn (HSG) đồng ý và hoan nghinh sự cổ võ của Ông Trần Văn Giang về nỗ lực bảo tồn tiếng Việt truyền thống trước sự băng hoại mà Việt cộng đang gây ra cho nền văn hoá nước ta bằng chính sách ngu dân cũng như sự dốt nát cố hữu của tập đòan cộng sản Việt Nam.

    Trong khuôn khổ của một email, và vì thời giờ hạn hẹp, ở đây HSG xin miễn diện dẫn sự xuống dốc của nền văn hoá và giáo dục hiện tại của Viêt Nam dưới ách toàn trị của cộng sản tham tàn. Tuy nhiên, quý vị có thể tìm thấy những bằng chứng về sự băng hoại nầy trên internet cũng như những email trước đây trên diễn đàn nầy.

    Việc bảo tồn tiếng Việt truyền thống là một vấn đề hoàn toàn có tính cách văn hoá mà những ai thiết tha với quê hương, dân tộc đều có nhiệm vụ phải thi hành. Chúng ta, những người yêu nước thương nòi, đều có bổn phận duy trì tiếng Việt trong sáng và phong phú của dân Việt, bỡi lẽ cộng sản Việt Nam, vì ngang ngược và dốt nát, đang nhồi vào đầu óc non nớt của trẻ em và quần chúng Việt Nam cách dùng chữ sai lệch tối nghĩa, ghép ráp bừa bãi, kỳ dị và sai văn phạm, làm mất vẻ đẹp và sự trong sáng của ngôn ngữ nước ta.

    Một sự kiện rất nguy hiễm cho nền văn học Việt Nam là hiện nay có một số người (ngay cả một số ký giả người Việt) ở hải ngoại không còn phân biệt được giữa từ ngữ truyền thống trong sáng của VN và từ ngữ sai lệch và quái gở của Việt cộng. Sự tắc trách nầy của một số trí thức VN ở hải ngoại là mối lo âu lớn của cộng đồng người Việt Quốc Gia.


    Kính thưa quý vị,

    HSG xin chứng minh cái sai lệch của từ ngữ Việt cộng với những thí dụ điển hình sau đây:

    (1) Sai văn phạm:

    Thí dụ:
    - Việt cộng nói : "Tôi đã liên hệ cô Lan". Câu nầy rõ ràng là sai văn phạm vì trong tiếng Việt truyền thống "liên hệ" là tỉnh từ như trong câu : "Hãy thông báo cho những người liên hệ" . Rõ ràng chữ "liên hệ" không thể dùng làm động từ như trong câu "Tôi đã liên hệ với cô Lan". Nói đúng tiếng Việt, ta phải nói : "Tôi đã liên lạc với cô Lan".

    - Một thí dụ khác về cách nói sai văn phạm của Việt cộng: "Các anh phải lao động tốt". Câu nầy hoàn toàn sai văn phạm vì "lao động" là tỉnh từ (dân lao động, giới lao động) nên không thể dùng làm động từ. Cái sai văn phạm thứ hai của câu trên là : "tốt" là tỉnh từ (như tánh tốt , phong tục tốt) nên cũng không thể dùng như trạng từ. Do đó, thay vì nói: "Các anh phải lao động tốt" (sai), người Việt có học phải nói: "Các anh phải làm việc giỏi".

    - Nếu có thì giờ, quý vị có thể đọc báo cộng sản hay nghe chương trình Đọc Báo Vẹm trên Youtube để thấy cách viết sai văn phạm của Việt cộng.

    (2) Cách dùng chử ngô nghê, quê mùa và dốt nát.

    Thí dụ :
    - Việt cộng dùng chữ "tờ rơi" thay vì "tờ truyền đơn" hoặc "bóng đá" thay vì "bóng tròn" (bóng đá cũng sai văn phạm vì "đá" là động từ, trong khi đó "tròn" là tỉnh từ. Vì tỉnh từ dùng để bổ nghĩa cho danh từ, từ ngữ "bóng tròn" là đúng, "bóng đá" là sai. (Bóng Đá ?!?! Không lẽ cả hai đội cầu thủ lừng danh ra thi đấu trên sân cỏ mà chỉ dành nhau một cái "Bóng" ?!?! Đúng là câu nói Tối Nghĩa chứ không làm sáng lạng chữ nghĩa Việt Nam chi cả)

    - Việt cộng dùng chữ "siêu sao" thay vì "minh tinh" để nói về một tài tử xuất sắc.Từ ngữ "siêu sao" là một lối gán-ghép chữ nghĩa lai căng, pha trộn tiếng nho với tiếng nôm. Trong khi đó từ ngữ chính thống là "minh tinh" diễn tả một cách chính xác một tài tử xuất sắc (một ngôi sao sáng trên sân khấu)

    - Ngô nghê hơn nửa, Việt cộng gọi một tên cướp hạng nặng bằng "siêu cướp" !!! (lại cũng sai văn phạm vì "siêu" là tỉnh từ và "cướp" là động từ. Rõ ràng, trong văn phạm động từ không được dùng để bổ nghĩa cho tỉnh từ. Tiếng Việt truyền thống có danh từ kép "siêu nhân" (một nhân vật siêu phàm). Ở đây tỉnh từ "siêu" bổ nghĩa cho danh từ nhân. Cha Ông của chúng ta không bao giờ nói "siêu ăn" , "siêu uống" hoặc "siêu trộm" hay "siêu cướp"!

    (3) Cách dùng chữ ngô nghê, vô nghĩa và trơ trẽn.

    Thí dụ:
    - Việt cộng nói: "Giải phóng mặt bằng" thay vì nói : "San bằng nhà cửa". Cả hai chữ "giải phóng" và "mặt bằng" ở đây đều vô nghĩa. Chữ giải phóng thường dùng cho người như "giải phóng nô lệ" chứ không ai nói giải phóng nhà cửa hay giải phóng cây cối . Còn "mặt bằng", nếu có nghĩa là nhà cửa thì thật là "hết ý" của Đỉnh Cao Trí Tệ Đần Cố Nông!


    Kính thưa quý vị,

    Nếu có thì giờ, chúng ta có thể đưa thêm nhiều cái sai của ngôn ngữ Việt cộng. Tuy nhiên, HSG hy vọng rằng những thí dụ đơn sơ trên đây nói lên được phần nào cái băng hoại của tiếng nước ta dưới chế độ ngu dân của CSVN.

    Có những người cho rằng chúng tôi, những người chống ngôn ngữ Việt cộng, là quá khích. Thậm chí, có những người cho rằng chúng tôi hủ lậu không chấp nhận "ngôn(g) ngữ hiện đại” VN. (Hiện-Đại = Hại-Điện)

    Thưa quý vị, "hiện đại" thường để diễn tả sự tiến bộ trong cách nghành kỹ thuât và truyền thông . Tuy nhiên "ngôn(g) ngữ hiện đại" dưới chế độ cộng sản VN là một thoái bộ trầm trọng của tiếng nước ta!

    Đêm đã khuya, HSG xin dừng bút nới đây và hẹn sẽ tiếp tục khi có thì giờ.

    Kính
    Hương Sàigòn


    P.S. Mời quý vị đọc đoạn văn dưới đây trích từ báo Quân Đội Nhân Dân của Việt cộng mà ngậm ngùi cho TIẾNG NƯỚC TÔI.
    o-0-o

    QĐND (Quân Đạp Nhân Dân)
    – Sáng 7-7, Báo Quân đội nhân dân đã trọng thể tổ chức kỷ niệm 20 năm ngày Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần (một trong 4 ấn phẩm thuộc Báo Quân đội nhân dân) ra số đầu tiên (7-7-1990/7-7-2010). Tới dự có hơn 100 đại biểu, đại diện cho đông đảo thế hệ cán bộ, biên tập viên, phóng viên, cộng tác viên Báo Quân đội nhân dân Cuối tuần, lãnh đạo một số cơ quan báo chí trong và ngoài quân đội.
    ...........................

    Báo đã định hình nhiều chuyên mục bổ ích, mang hàm lượng tri thức và giải trí cao, khẳng định được vị thế và bản sắc trong “làng báo cuối tuần” cả nước với một số trang mục đặc sắc như: Sự việc – suy ngẫm, Chân dung người lính, Văn hóa – xã hội, Sáng tác – Phê bình Văn học, Gặp gỡ - Phỏng vấn, Câu lạc bộ chiến sĩ, Thể thao, Quốc tế…

    Tại lễ kỷ niệm, nhiều ý kiến phát biểu mong muốn và kiến nghị thời gian tới, Báo tiếp tục đổi mới, khắc phục một số hạn chế, tăng hàm lượng tri thức, chất Quân đội nhân dân Cuối tuần lượng nội dung và hình thức, phản ánh sâu sắc và sinh động hơn đời sống LLVT và xã hội dưới góc độ văn hóa - nghệ thuật; tăng nhuận bút và số lượng phát hành rộng rãi hơn nữa trong toàn quân và cả nước; trở thành tờ báo VHVN hàng đầu của LLVT và nhân dân...

    NGUYÊN MINH

    (Đọc xong tôi phải chạy đi tìm cuốn Tự-Điển Việt Nam để tra chữ nghĩa. Thật không ngờ, xem qua lối viết văn của Vịt + ngày nay tôi mới biết tiếng Việt của mình còn "dở quá". Thế mới biết Ngôn(g)-Ngữ của Đỉnh Cao Trí Tệ Đần Cố Nông ngày nay "Siêu Cực Nâng Cao" ra sao)
    = = = = = = = = = = =

    - Bảng đối chiếu từ ngữ của Việt Cộng và Việt Nam
    Lời người giới thiệu:

    -Có những từ ngữ của miền Nam và miền Bắc trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 viết và cách dùng giống nhau; nhưng đồng thời cũng có rất nhiều chữ viết giống y như nhau nhưng ý nghĩa (hoàn toàn khác biệt) dễ dàng gây “hoang mang” (confused) nếu người đọc (hoặc người nghe) không biết trước.

    -Ở Việt Nam sau 1975, vì nhiều lý do, một số từ ngữ của miền Nam (VNCH) đã bị thay thế hẳn. Tuy nhiên văn hóa và truyền thông của cộng đồng người Việt tị nạn CS ở hải ngoại vẫn tiếp tục duy trì các từ ngữ của VNCH.

    -Đã có một số tác giả hiện đang sống ở hải ngoại viết về vấn đề gọi là “cái chết của ngôn ngữ Sài gòn cũ.” Cá nhân tôi không đồng ý với quan điểm là tiếng Sài Gòn cũ (VNCH) đã hoặc sẽ chết. Thực tế cho thấy dân số tị nạn CS tại hải ngọai gần 3 triệu người hàng ngày vẫn dùng và bảo tồn chữ Sài gòn cũ trong gia đình, trong các buổi thánh lễ ở nhà thờ, trong kinh sách vào những buổi lễ thuyết pháp Phật giáo, trong các sinh họat thiếu nhi thánh thể cũng như gia đình phật tử… Hiển nhiên chữ Sài Gòn cũ luôn luôn có sẵn và không hề thiếu thì hà cớ gì chúng ta phải dùng đến chữ của Vi-Ci (VC) (riêng sự việc người dân Việt đang sống trong trong nước phải dùng từ ngữ CS trong mọi liên lạc, văn hóa là chuyện cũng dể hiểu thôi...)

    -Người Do thái sau khi tan hàng ở Palestine vì có thể bị diệt chủng (bởi áp lực của Hồi giáo và dân Ả rập) cả chục thế kỷ rồi. Họ cũng sống lưu vong khắp nơi trên thế giới giống như dân Việt tị nạn CS; Vậy mà khi vừa mới tái lập quốc gia Do thái ở khoảng năm 1950 là họ đã khai sinh ngay trở lại một tử ngữ (dead language) của họ, tiếng Hebrew, thành một sinh ngữ (living language). Với cái đà xuống dốc tệ hại của chủ nghĩa CS hiện nay ở Việt Nam thì cơ hội phục hưng của người quốc gia và sự trở lại tiếng Sài Gòn cũ không phải chỉ có trong ước mơ. Bây giờ chúng ta cứ vô tình dùng chữ ngây ngô của VC thi chẳng khác gì như vô hình dung chúng ta chấp nhận CS (tương tự như trang điện báo của đảng CSVN hoan hỉ phổ biến sự thao dượt hải quân của Trung cộng trên quần đảo trường sa và Hoàng sa của Việt Nam).

    -Tôi cố gắng thu góp lại, từ nhiều bài viết của nhiều tác gỉa và từ kinh nghiệm cá nhân, một số từ ngữ (của VC và VNCH) thuộc lọai “dễ dàng gây hoang mang” này và tạm xếp vào một bảng đối chiếu dưới đây để quí vị rộng đường tham khảo; tùy ý sử dụng; và để may ra giúp quí vị tránh các trường hợp đáng tiếc (bị đồng bào chung quanh hiểu lầm “địa chỉ” của mình).

    T.V.G.
    o=0=o


    Sau đây là Bản Đối Chiếu

    TỪ NGỮ VC................................................ .............. & TỪ NGỮ VNCH

    Ấn tượng............................................. ..................... = Đáng ghi nhớ, đáng nhớ

    Bác sỹ / Ca sỹ................................................ ............ = Bác sĩ / Ca sĩ
    Bang.............................................. ........................... = Tiểu bang (State) (Vịt + nói chuyện trơ trẽn)
    Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ........................................ = Bắc phần / Trung phần / Nam phần
    Báo cáo............................................... ...................... = Thưa trình, nói, kể
    Bảo quản.............................................. .................... = Che chở, giữ gìn, bảo vệ
    Bài nói............................................... ....................... = Diễn văn

    Bảo hiểm (mũ bảo hiểm)............................................ = An toàn (mũ an toàn, nhưng trong MN thì đa số ai cũng nói là Nón an toàn)
    (Safety Hats mà Vịt + dịch là Mũ Bảo Hiểm thì tôi cũng Hết ý!)

    Bèo............................................... ............................. = Rẻ (tiền)

    Bí kíp............................................... .......................... = Bí quyết. Một điều gì đó bí mật...

    Bị đẹp............................................... ......................... = (Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)

    Bồi dưỡng (hối lộ?).............................................. ....... = Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ

    Bóng đá................................................ .................... = Đá Banh, Túc cầu
    (Cái bóng mà đá được mình thì chỉ có ở XHCN VN)

    Bức xúc............................................... ..................... = Dồn nén, bực tức
    Bất ngờ............................................... ...................... = Ngạc nhiên (surprised)
    Bổ sung.............................................. ...................... = Thêm, bổ túc

    Cách ly................................................ ..................... = Cô lập
    Cảnh báo............................................... .................. = Khuyến Cáo, Báo động, phải chú ý
    Cái A-lô................................................ ..................... = Cái điện thọai (telephone receiver)
    Cái đài............................................... ....................... = Radio, máy phát thanh
    Cái nồi ngồi trên cái cóc............................................. = Cái phin (lược pha cafe)
    Căn hộ................................................ ...................... = Căn nhà
    Căng (lắm)............................................. .................. = Căng thẳng (intense)
    Cầu lông.............................................. .................... = Vũ cầu
    Cơ trưởng............................................ .................... = Phi công
    Cụ thể .................................................. .................. = Thực tế

    Chảnh............................................. ......................... = Kiêu ngạo, làm tàng
    Chặn.............................................. ........................... = Chận, (Ngăn chận v..v..)
    Chất lượng............................................. .................... = Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)

    Chất xám............................................... ................... = Trí tuệ, sự thông minh
    Châu Á................................................. .................... = Á Châu (Âu Châu, Úc Châu, Mỹ Châu & Phi Châu)
    Chế độ................................................ ...................... = Quy chế
    Chỉ đạo............................................... ...................... = Chỉ thị, ra lệnh
    Chỉ tiêu.............................................. ....................... = Định suất
    Chống bão............................................... ................ = Tránh bão
    Chủ nhiệm............................................. .................. = Trưởng ban, Khoa trưởng
    Chủ trì............................................... ...................... = Chủ tọa
    Chủ yếu............................................... .................... = Mục đích ... để ... là...
    Chữa cháy.............................................. .................. = Cứu hỏa
    Chiêu đãi............................................... ................... = Thết đãi, Thiết đãi
    Chui.............................................. ............................ = Lén lút
    Chôm chĩa .................................................. .............. = Ăn cắp, trộm cắp chứ không phải là cướp.

    Chuyên chở............................................... ............. = Nói lên, nêu ra
    Chuyển ngữ............................................... ............. = Dịch
    Chứng minh nhân dân............................................. = Thẻ Căn cuớc
    Chủ đạo............................................... .................... = Chính

    Co cụm............................................... ...................... = Thu hẹp
    Công đoàn.............................................. ................. = Nghiệp đoàn
    Công nghiệp............................................ ............... = Kỹ nghệ
    Công trình............................................. ................... = Công tác
    Cơ bản............................................... ...................... = Căn bản
    Cơ khí (tĩnh từ!).............................................. ......... = Cầu kỳ, phức tạp
    Cơ sở................................................ ........................ = Căn bản, nguồn gốc
    Cửa khẩu.............................................. ................... = Phi cảng, Hải cảng
    Cụm từ................................................ ...................... = Nhóm chữ
    Cứu hộ................................................ ..................... = Cứu cấp

    Diện.............................................. ............................ = Thành phần
    Diễu hành.............................................. .................. = Diễn hành (Mới nghe lại tưởng họ làm trò hề ở ngoài đường)
    Dự kiến.............................................. ....................... = Phỏng định, dự định...

    Đại học mở................................................ .............. = ???
    Đây là sự góp ý của một độc giải có tên trên FB là Song Triều đã viết như sau: Xin góp ý về chữ "đại học mỡ" : Có thể lấy từ chữ "Open University", các trường đi học này dạy bằng hệ thống mạng lưới toàn cầu internet (có từ lâu ở Âu Châu và Mỹ, trong đó cũng có vài nước Á Châu).

    Đào tị................................................ ......................... =Tỵ nạn
    Đầu ra / Đầu vào............................................... ...... =Xuất lượng / Nhập lượng
    Đại táo / Tiểu táo............................................... ...... = Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
    Đại trà............................................... ........................ =Quy mô, cỡ lớn
    Đảm bảo............................................... .................... =Bảo đảm
    Đăng ký................................................ .................... =Ghi danh, ghi tên
    Đáp án................................................ ...................... =Kết quả, trả lời
    Đề xuất.............................................. ....................... =Đề nghị
    Đội ngũ............................................... ...................... =Hàng ngũ
    Động não............................................... .................. =Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
    Đồng bào dân tộc............................................... .... =Đồng bào sắc tộc
    Động thái.............................................. ................... =Động lực
    Động viên.............................................. .................. =Khuyến khích
    Đột xuất.............................................. ...................... =Bất ngờ
    Đường băng.............................................. .............. =Phi đạo
    Đường cao tốc............................................... ......... =Xa lộ

    Gia công.............................................. ..................... =Làm ăn công
    Giải phóng............................................. .................. =Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)

    Giải phóng mặt bằng............................................. =Ủi cho đất bằng
    Giản đơn............................................... ................... =Đơn giản
    Giao lưu............................................... .................... =Giao thiệp, trao đổi

    H(h).............................................. ............................ =Giờ, ví dự như 1h là 1g (giờ).
    Lai căng theo đế quốc (1 h = One hour)

    Hạch toán.............................................. .................. =Kế toán
    Hải quan.............................................. .................... =Quan Thuế
    Hàn Quốc.............................................. ................... =Đại Hàn, Nam hoặc Bắc Hàn hay còn gọi là Triều Tiên

    Hàng không dân dụng.......................................... =Hàng không dân sự
    Hát đôi............................................... ....................... =Song ca
    Hát tốp............................................... ....................... =Hợp ca
    Hạt nhân (vũ khí).............................................. ...... =Nguyên tử
    Hậu cần............................................... ..................... =Tiếp liệu
    Học vị................................................ ........................ =Bằng cấp
    Hệ quả............................................... ....................... =Hậu quả
    Hiện đại............................................... ..................... =Tối tân
    Hộ Nhà............................................... ...................... =Gia đình
    Hộ chiếu............................................. ...................... =Sổ Thông hành
    Hồ hởi............................................... ........................ =Phấn khởi
    Hộ khẩu.............................................. ...................... =Tờ khai gia đình
    Hội chữ thập đỏ................................................ ...... =Hội Hồng Thập Tự
    Hội Hồng Nguyệt............................................ ........ =Trăng lưỡi liềm Đỏ
    Hoành tráng............................................. ............... =Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
    Hưng phấn.............................................. ................ =Kích động, vui sướng
    Hữu hảo............................................... .................... =Tốt đẹp
    Hữu nghị.............................................. .................... =Thân hữu
    Huyện............................................. .......................... =Quận

    Kênh.............................................. ........................... =Băng tần (Channel)
    Khả năng (có).............................................. ........... =Có thể xẩy ra (possible)
    Khẳng định.............................................. ................ =Xác định
    Khẩn trương............................................ ................ =Nhanh lên
    Khâu.............................................. ........................... =Bộ phận, nhóm, ngành, ban, khoa
    Khuyết danh.............................................. .............. =Vô Danh. (Người không tên v...v...)
    kiên quyết............................................. ................... =Qủa quyết (mạnh mẻ, đứng đắng ...v...v...)
    Kiều hối............................................... ..................... =Ngoại tệ
    Kiệt suất.............................................. ..................... =Giỏi, xuất sắc
    Kinh qua............................................... ................... =Trải qua

    Làm gái............................................... ...................... =Làm điếm
    Làm việc.............................................. ..................... =Thẩm vấn, điều tra
    Lầu năm góc / Nhà trắng....................................... =Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
    Lễ tân............................................... ......................... =Tiêp tân (người đón, tiếp khách mới vào...)
    Liên hoan.............................................. ................... = Đại hội, ăn mừng
    Liên hệ................................................ ..................... = Liên lạc (contact)
    Linh tinh.............................................. ..................... = Vớ vẩn
    Lính gái............................................... ..................... = Nữ quân nhân
    Lính thủy đánh bộ................................................ .. = Thủy quân lục chiến
    Lợi nhuận............................................. ................... = Lợi tức
    Lược tóm............................................... ................... = Tóm lược
    Lý giải.............................................. ......................... =Giải thích (explain)

    Màn hình .................................................. ................ = Màn Ảnh như màn ảnh TV, màn ảnh chiếu phim v...v..

    Máy bay lên thẳng............................................. ..... =Trực thăng
    Manh Động.............................................. ............. = Bạo Động, Hung Hăng, Dữ tợn...v...v...

    Múa đôi............................................... ...................... =Khiêu vũ
    Mĩ................................................ ............................... =Mỹ (Hoa kỳ =USA)
    Minh chứng............................................. ................ =Chứng minh

    Nắm bắt............................................... ..................... =Nắm vững
    Nâng cấp............................................... ................... =Nâng, hoặc đưa giá trị lên
    Năng nổ................................................ ................... =Siêng năng, tháo vát
    Nghệ nhân.............................................. ................ =Nghệ sĩ
    Nghệ danh.............................................. ................. =Tên (nghệ sĩ = stage name) dùng ngoài tên thật
    Nghĩa vụ quân sự................................................ .. =Đi quân dịch
    Nghiêm túc............................................... ............... =Nghiêm chỉnh
    Nghiệp dư................................................ ................ = Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
    Nhà đài............................................... ...................... = Đài phát thanh. Cẩn thận, VN phân biệt "đài phát thanh" và"đài truyền thanh".

    Nhà khách............................................. .................. = Khách sạn
    Nhân thân.............................................. .................. = Người thân.Vai vế tước quyền thuộc lý lịch bản thân người nào đó. = (Ví dụ bác Sỹ có nhân thân tốt (Đảng viên cao cấp) nên dẫu đớptriệu đô vẫn bị xử nhẹ hều!! Quan trọng là đô nuốt rồi thì ém luôn, sướng tê)

    Nhất trí............................................... ....................... = Đồng lòng,đồng ý
    Nhân viên bảo vê................................................ ... =Nhân viên trật tự
    Nhất quán.............................................. .................. =Luôn luôn, trước sau như một
    Người nước ngoài............................................. .... = Ngoại kiều
    Nguy kịch.............................................. ................... = Trầm trọng
    Nỗi niềm (tĩnh từ!).............................................. ..... = Vẻ suy tư

    Phần cứng.............................................. ................. = Cương liệu
    Phần mềm............................................... ................ = Nhu liệu
    Phẫu thuật............................................. .................. =Giải Phẫu
    Phản ánh............................................... .................. = Phản ảnh
    Phản hồi............................................... ................... = Trả lời, hồi âm
    Phát hiện.............................................. ................... = Phát giác
    Phát sóng.............................................. ................... = Phát thanh
    Phó Tiến Sĩ................................................ .............. = Cao Học
    Phòng cháy chưã cháy......................................... =Sở cứu hoả
    Phi khẩu.............................................. ..................... =Phi trường, phi cảng
    Phi vụ................................................ ....................... = Một vụ trao đổi thương mại (a business deal = thương vụ)

    Phục hồi nhân phẩm............................................. = Hoàn lương
    Phương án................................................ .............. = Kế hoạch

    Quá tải............................................... ....................... = Quá sức, quá mức
    Quán triệt............................................. .................... = Hiểu rõ,hiểu thấu đáo v..v...
    Quản lý................................................ ..................... =Quản trị
    Quảng trường............................................ ............. = Công trường
    Quân hàm............................................... ................. = Cấp bực
    Quy hoạch............................................. .................. = Kế hoạch
    Quy trình............................................. ..................... =Tiến trình

    Sổ hộ khẩu.............................................. ................ =Sổ gia đình (tờ khai gia đình)
    Sốc (“shocked)”....................................... ................ =Kinh hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên
    (Tại sao chữ Việt cả kho trong tự điển không dùng, mà lại bắt chước thằng Mỹ để dùng chữ Sốc = Shocked? Đúng là Đừng nghe những gì CS nói, mà . . . Biếtrồi không nhắc nữa nhé!)

    Sơ tán............................................... ........................ = Tản cư
    Sinh chứng............................................. ................ = (Giấy, Tờ...) Khai Sinh
    Sư................................................ .............................. = Sư đoàn
    Sức khỏe công dân............................................... . = Y tế công cộng
    Sự cố................................................ ........................ = Trở ngại

    Tập đoàn / Doanh nghiệp..................................... =Công ty
    Tấm biển.............................................. .................... =Tấm bảng (cái bảng quảng cáo v...v...)
    Tên lửa............................................... ...................... =Hỏa tiễn
    Tham gia lưu thông (xe cộ)................................... = Lưu hành, giao thông
    Tham quan.............................................. ................ = Thăm viếng
    Thanh lý................................................ ................... =Thanh toán, chứng minh
    Thân thương............................................ ............... = Thân mến
    (Làm ơn mọi người đừng dùng chữ Thân-Thương trên sân khấucũng như khi viết bài nhé)

    Thi công.............................................. ..................... = Làm
    Thị phần.............................................. ..................... = Thị trường
    Thiếu đói............................................... ................... = Thiếu ăn. (đủ ăn ??? )
    Thiết kế................................................ ..................... = Xây dựng nhà cửa, công trình v..v..
    Thu gom............................................... .................... =Thu dọn
    Thu nhập.............................................. ................... =Lợi tức
    Thư giãn.............................................. ..................... =Tỉnh táo, giải trí
    Thuyết phục (tính)............................................ ...... =Có lý (makes sense), hợp lý, tin được
    Tiên tiến.............................................. ..................... =Xuất sắc
    Tiến công.............................................. ................... =Tấn công
    Tiếp thu............................................... ..................... =Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh hội
    Tiêu dùng.............................................. ................... =Tiêu thụ
    Tổ lái............................................... .......................... =Phi hành đòan
    Tờ rơi............................................... ......................... = Truyền đơn
    Tranh thủ............................................... .................. = Cố gắng
    Trãi nghiệm............................................ .................. =Kinh nghệm
    Trí tuệ............................................... ......................... = Kiến thức
    Triển khai.............................................. ................... = Khai triển
    Tư duy............................................... ....................... = Suy nghĩ
    Tư liệu.............................................. ........................ = Tài liệu
    Tư vấn............................................... ....................... = Cô vân, (gó ý,đề nghị điều gì vớ ai, giúp ai...)
    Từ................................................ .............................. =Tiếng, chữ. (Văn chương chữ nghĩa không thể gọi trơ trẽn là Từ, hoặc cái Từ được)

    Từ Vựng.............................................. ..................... =Ngữ Vựng
    Tự sướng............................................. .................. =Tự chụp hình mà gọi là Tự Sướng. Một câu nói thậtvô duyên và gần như mất dạy trước công chúng vì nó đồng nghĩa với Thủ Dâm.

    Ùn tắc............................................... ........................ =Tắt nghẽn. (Một câu nói vô duyên và mang tính chât Nô Lệt Tàu quá đáng, giốngnhư câu nói Ừm-Tắc = Không được củatiếng Quãng Đông)

    Va quệt.............................................. ....................... =Va chạm, đụng chạm
    Vấn nạn............................................... .................... =Vấn đề
    Vận động viên.............................................. ........... =Lực sĩ
    VC Cải tạo............................................... ................. =VN Tù khổ sai
    VC Chui cửa hậu............................................... .... =VN Công du
    VC (cục) Đường biển............................................ =VN (cuộc) Hàng hải
    VC (cục) Đường sắt............................................... =VN (cuộc) Hỏa xa
    VC Giao cấu............................................... ............. =VN Giao hợp
    VC Giá mềm............................................... ............. =VN Giá rẻ
    VC Giá hữu nghị.............................................. ...... =VN Giá tượng trưng
    VC hâm, tửng.............................................. ............ =VN Khùng, mát giây
    VC Hộ lý................................................ ................... =VN Dâm nô
    VC Khẩu trang............................................. ........... =Băng vệ sinh VN
    VC Nhân thân.............................................. ........... =VN Thân nhân
    VC Quản lý................................................ .............. =VN Sở hữu
    VC Làm chủ............................................... .............. =VN Nô lệ
    VC Sân bay............................................... .............. =VN Phi trường
    VC: Tài chủ nước lạ............................................... = VN: Tàu cộng xâm lăng
    VC Tàu vũ trụ............................................... ........... = VN phi thuyền
    VC Tiến sĩ hữu nghị.............................................. = VN Tiến sĩ giấy - tiến sĩ dzỏm
    VC ?? ?? ??................................................ ............. = VN Trạm không gian

    Viện Ung Bướu.............................................. ........ = Viện Ung Thư
    Vòng Xoay.............................................. ................. =Bùng Binh (...chợ Bến Thành SG)
    Vô tư................................................ ......................... = Tự nhiên

    Xác minh.............................................. .................... = Xác nhận
    Xác tín............................................... ........................ = Chính xác
    Xe con............................................... ....................... = Xe du lịch
    Xe khách............................................. ..................... = Xe đò
    Xu hướng............................................. ................... = Khuynh hướng
    Xuất khẩu.............................................. .................. = Xuất cảng
    Xử lý................................................ .......................... =Giải quyết, thi hành
    Xưởng đẻ................................................ ................. = Bệnh viện phụ sản

    (… còntiếp)

    * Quý vị nào thấy có thêm những chữ loại này ở đâu đó (?) hoặc thấy sự đối chiếu trong bảng này chưa đúng lắm (!) thì xin vui lòng mách dùm để "nhà cháu" bổ túc (không phải bổ sung) và sửa chữa lại cho đúng (không phải là hoàn chỉnh hoặc sửa đổi) , và cũng để cho mọi người cùng phấn khởi (không phải là hồ hởi) để mà tham khảo thêm.
    - Xin Đa tạ…

    Trần Văn Giang [ghi chép lại]

    TCB tôi sưu tầm. (bc)

    Comment


    • Font Size
      #3
      Post số 2 bên trên là nguyên văn "sao y bản chính" ...
      ... không ai kiểm duyệt và dĩ nhiên là không đầy đủ và cũng không hoàn toàn đúng ...
      Việt nam có 54 dân tộc ... không thể nói tiếng nói của miền nào hay dân tộc nào là đúng ... tiếng Việt ngày càng tệ ... nên biết để học và hiểu ... không nên chế nhạo hay châm biếm ...
      Đào Văn Bình có "Tự Điển Đổi Đời" PDF có thể tìm ở Google và tải về.
      Tự Điển Hoàng Phê bản 2003 PDF có thể tìm ở Google và tải về (nếu muốn bản mới hơn thì nên mua ... đừng tìm mà tải về vì có thể bị bẫy virus).







      Comment


      • Font Size
        #4
        Từ điển tiếng “Quảng nôm”

        https://kienthuconline24h.com/tu-die...ang-quang-nom/
        Từ điển tiếng địa phương quảng nam Đà nẵng “Quảng nôm”
        By kienthuc24h - 16/06/2021

        Quảng nam là một tỉnh thành miền trung của Việt Nam, nếu bạn đã từng ghé qua dải đất miền trung này hoặc đã từng tiếp xúc với người dân Quảng nam thì chắc hẳn bạn sẽ rất ấn tượng với các từ địa phương mà người dân nơi đây vẫn hay sử dụng

        Từ địa phương Quảng nôm hẳn rất đặc trưng và khó nhầm lẫn với các vùng miền khác bởi cách luyến láy hoàn toàn khác biệt. Một số thay đổi trong âm, vần của các âm tiết đặc trưng như:

        am ⇔ ôm (Tham làm => Thôm lôm; đi làm => đi lồm;…)

        từ điện địa phương quảng nam

        Hãy cùng chúng Kiến thức 24h điểm qua một số từ địa phương quảng nam ngay nhé!

        Tiếng địa phương Quảng nam theo vần A, B, C

        Ăn côm … Ăn cơm (VD: mời anh vào ăn côm … mời anh vào ăn cơm)

        Boạn bay … Bạn (bọn) bây, bọn mày, chúng mày; “Giọng Quảng nam học được cũng líu hết cả lưỡi đúng không các bạn 🙂 )

        Bèn … Bằng (VD: Ăn cơm bèn thìa … ăn cơm bằng thìa)

        Bảy Đáp … Đồ tể.

        Bồ Hốc … Tham ăn. (VD: Cái đồ Bồ hốc … Cái đồ tham ăn, ăn một mình)

        Bãi đi … Bỏ đi.(VD: Khó quá thì bãi đi … khó quá thì bỏ qua)

        Chảy máy … Chảy máu (đây là tiếng địa phương quảng nam đặc thù của người Quảng nam, đặc biệt là người dân vùng biển Châu Thuận, châu Me, Châu Bình)

        Cái mủng ang, cái mủng ảng … Giống như cái rổ nhưng đan kín, có thể dùng để đo lường thể tích hoặc khối lượng nông sản như muối hoặc lúa thóc

        Cái bót … Cái bàn chải đánh răng, bàn chải giặt đồ

        Cái quạu, cái cạu … Cái rổ nhỏ (cái rá tùy từng tiếng địa phương)

        Cái thụi … Cái túi áo 🙂 học tiếng miền trung thú vị không các bạn!!

        Cái bị … cái bịch, cái túi đựng đồ

        Chu Choa … ôi trời, trời ơi (tỏ sự ngạc nhiên khi nhìn thấy hoặc cảm nhận thấy cái gì đó hơi khác thường)

        Cái Trạc …. Giống nừng nhưng có lỗ to hơn.

        Cái dừng, cái dừn … Cái giần dùng để sang gạo thóc thời chưa có máy móc

        Cái sảo, cái rổ sàng … Cái rổ đan bằng tre để sàng, sảo các loại nông sản, các loại củ quả

        Cái nong, cái nống … Đan kín bằng tre dùng để đựng lúa, thóc

        Cái thọa … cái hộc bàn

        Chửng chàng … Nghĩa là từ từ (VD: Chửng chàng mà ăn nhé … Ăn từ từ nhé)

        Cái đòn … Cái ghế ngồi làm bằng gỗ ngày xưa hay dùng

        Cành nanh … Ganh tỵ, nạnh tỵ (VD: Cái đồ cành nanh … Cái đồ ganh tỵ, nạnh tỵ người khác

        Cái tộ … cái tô (VD: Lấy cái tộ đựng canh … lấy cái bát tô đựng canh)

        Cá gáy … cá chép lớn;

        Cá diết … cá diếc theo tiếng gọi của người miền bắc (nó giống cá gáy nhưng bé hơn, thân hình màu trắng)

        Cà xịch cà lụi … Đi đứng không vững, đi lại loạng choạng.

        Cái sanh … Cái chảo dùng để nướng đồ ăn

        Cái cộ … Cái xe rùa (dùng để chở vật liệu,…)

        Cái ảng … cái chậu được đúc bằng xi măng, thường dùng để trồng cây cảnh

        Cái ghè, cái sập …. giống như cái bồ để bảo quản nông sản, chủ yếu là lúa và được đúng bằng bê tông thường cao khoảng 1 mét; 1,2 mét

        Cái gáo … được làm bằng quả dừa cắt đôi ra, dùng để múc nước các cụ ngày xưa vẫn hay dùng

        Cái O … chính là cái Nọng con heo.

        Cái bồ … đây là dụng cụ dùng để đựng lúa (thường được đan bằng tre)

        Từ điển tiếng Quảng nam theo vần D, E, F

        Đi lồm … đi làm (VD: Sáng mai mấy giờ đi lồm … Sáng ngày mai mấy giờ đi làm)

        Dọa thưa … Dạ thưa (VD: Dọa thưa con đi làm về … Dạ thưa con đi làm về)

        Dẫy nê … Vậy hả 🙂 học tiếng quảng không khó lắm đúng không bạn!!

        Dô … Vô (VD: mời dô …. mời vào) 🙂 đây là đặc trưng tiếng địa phương Đà nẵng nhé các bạn!!

        Dào … Vào (Dô và vào trong trường hợp này nghĩa giống nhau nhé các bạn)

        Dề … Về (VD: Anh dề đi tôi có người khác rồi … Anh về đi tôi có người khác rồi)

        Đã hễ … Đã nha (VD: Được ăn một bữa Đã hễ … Được ăn một bữa đã nha)

        Đứng dẹo … Đứng tựa vào 1 vật thể nào đó

        Dái … vái lạy.

        Đánh đòn xa … động tác đi lại 2 tay đánh so le liền khúc đấy các bạn

        Đầu dầu … Đi đầu trần không mũ nón đội trên đầu

        Đường dầu … Chính là những con đường đã được đổ nhựa đường

        Đi bung, đi đùng … giống như kiểu đi đập phổng ngô, phổng gạo, khoai lang sắt khô của những đứa trẻ ở vùng nông thôn, thực tế các các vùng miền khác cũng khá nhiều

        Dồi … Ném. (VD: Dồi cho mình quả ổi …. ném cho mình quả ổi)

        Ề … Ừ 🙂 Nếu có dịp về với Quảng nam thì hãy thưởng thức món đặc sản ngôn ngữ này nhé!!

        Tiếng địa phương Quảng nam theo vần G, H, I

        Giê lúa … đây là hành động giơ rổ lúa lên cao rồi thả trước gió để tách hạt lúa dẹp với hạt lúa chắc ra 2 bên

        Giấy manh … Giấy kẻ ngang

        Ghế … Trộn chung hay độn chung lại với nhau.

        Gàu dai … hay còn gọi là cái gàu dùng để tát nước, ở các vùng nông thôn trồng lúa hoặc trồng rau hay dùng để tát nước vào ruộng

        Hủ bùng binh … Con heo đất dùng để tiết kiệm tiền

        Tiếng địa phương Quảng nam theo vần K, L, M, N

        Léng … Lắng (VD: để yên cho dầu nó léng xuống dưới => để yên cho dầu nó lắng xuống dưới)

        Lủ khủ … Rất nhiều

        Láu táu … Nghịch ngợm (VD: lớn rồi mà láu táu => lớn rồi mà còn nghịch ngợm)

        Lin … dầu nhớt; (dầu nhớt xe máy, oto)

        Nê là … Hay là (VD: Nê là cho mình 1 nữa => Hay là cho mình 1 nữa)

        Nê sao … Hay sao (VD: Định ăn 1 mình nê sao => Định ăn 1 mình hay sao)

        Nề … nè, này (VD: tôi bảo nề => Tôi bảo này)

        Noái … Nói

        Nừng : dùng để luồn dây để gánh lúa, nông sản hai bên

        Kén reng … Cắn răng (VD: Cố kén reng mà chịu đựng nhé => Cố cắn răng mà chịu đựng nhé)

        Tiếng địa phương Quảng nam theo vần O, P, Q

        Ở trỏng … Ở trong

        Ở ngoải … Ở ngoài

        Óc nóc … No quá

        Phẻ … khỏe (VD: Dạo này Phẻ không => Dạo này khỏe không?)

        Quâ quâ … Khó bảo, lì lợm, nói không chịu nghe

        Úm … Quấn nhau, giữ kín

        Tiếng địa phương Quảng nam theo vần T, R, X, S

        Tiếp tục tiếng quảng nôm với các vần còn lại nhé bạn!

        Tộm biệt … Tạm biệt;

        Tồm tộm … Tàm tạm;

        Túm … Bịch hay túi bằng ni lông.

        Trùi … Trượt xuống (dùng để chỉ hành động của động vật).

        Trời wơi … trời ơi

        Trụi lủi … hết sạch, Không còn gì (VD: Ăn trủi lụi không để miếng nào => Ăn hết sạch không để lại miếng nào)

        Tính rợ … Tính nhẩm

        Xe độp … Xe đạp (Nếu các bạn hỏi tỉnh nào ở Việt Nam không có xe đạp thì là tỉnh Quảng nam nhé. Ở Quảng nôm không có xe đạp mà chỉ có xe độp)

        Số tốm … số Tám

        Sảy, sàng … Động tác sàng lúa, sảy gạo.

        Sõi hông … Thành thạo không, có biết không (VD: Công việc sõi hông => Công việc có thành thạo không)

        Xin chồ … Xin chào

        Xung xây … Bị đau đầu, chóng mặt (VD: Tự nhiên thấy xung xây => Tự nhiên thấy đau đầu, chóng mặt)

        Tìm hiểu thêm một số thuật ngữ khác

        Rứa là gì?

        Mô tê răng rứa là gì? đây là câu hỏi được rất nhiều người hỏi đặc biệt là các bạn ở phía bắc hoặc phía nam, bởi răng mô chi rứa là các dùng từ địa phương cách nói tiếng miền trung rất hay dùng, và dùng 1 cách rất phổ biến. Thực chất nghĩa của các từ này rất đơn giản:

        Mô: chính là “đâu” nó thuộc về phương ngữ. Một số ví dụ về từ địa phương “mô”.

        – Đi mô về? = Đi đâu về?

        – Đi làm việc ở mô? = đi làm việc ở đâu?

        – Đi chợ mua đồ ăn ở mô? = đi chơ mua đồ ăn ở đâu?

        Tê: Chính là “kia”. Một số ví dụ về “Tê”

        – Đứa con gái tê xinh gái quá = Đứa con gái kia xinh gái quá

        – Lấy đồ ăn ở tê= Lấy đồ ăn ở kia

        Răng là sao? Răng chính là “sao” đấy các bạn ạ. Một số ví dụ nhé:

        – Răng hôm nay không đi học = Sao hôm nay không đi học

        – Răng không nói gì = Sao không nói gì?

        – Tại răng lại đến muộn? = Tại sao lại đến muộn?

        Rứa là gì? Rứa chính là “đó, thế” thôi các bạn ạ. Một số ví dụ nhé:

        – Làm chi rứa? = Làm gì thế? (làm gì đó)

        – Tiếng quảng nam vui như rứa đó = Tiếng Quảng nam vui như thế đó

        – Bài toán này làm kiểu chi rứa = Bài toán này làm kiểu gì đó?

        Comment


        • Font Size
          #5
          Từ điển tiếng Quảng Trị

          http://tinquangtri.com/tu-dien-tieng...i-a-toi-e.html
          Từ điển tiếng Quảng Trị (A tới E)

          Đây là nơi dùng để tra từ Quảng Trị cho những ai không hiểu. Những từ phổ thông có nhưng không phổ biến mà Quảng Trị nói thông dụng cũng đưa vào đây; Đương nhiên có nhiều từ của miền trung mà Quảng Trị dùng nhiều. Mọi người hãy cùng nhau đóng góp thêm nhé.

          Mong mọi người ủng hộ một tay. Nhất là các cô bác lớn tuổi! Sẽ làm dần đến hoàn chỉnh. Sai sửa, thiếu thêm!

          Sau đây là danh sách các từ địa phương Quảng Trị theo vần từ A đến E

          * Chú giải: (P) : Phiên âm bắt nguồn từ tiếng Pháp được Việt Hoá sau đó Quảng Trị hoá mà có.
          (TN): Thành ngữ riêng Quảng Trị
          (VD) Ví Dụ

          A:
          – Áng : Ước lượng , ước tính , đoán chừng (Tui áng chừng cái ni nặng khoảng 84 kí = Tôi đoán chừng cái này nặng khoảng 84 kg)
          – Ả: Chỉ phụ nữ, dùng cho ngôi thứ 3.
          – Ảng: Lu, chum, vại đựng nước.
          – Ây: Ừ, à, ầy, ôi. Ây rứa à = À thế a = Ừ thế à!; ầy dèo = Ô chà (cảm thán!) = Ôi chao!; Ầy hèo! = Ừ hè (hèo)! = Thế à!
          – Ấy: Làm. Ấy đi = làm đi. Ấy chưa = Làm (cái đó) chưa?.

          B:
          – Ba láp: Bá láp bá đế, nói lung tung, nói tầm bậy tầm bạ (Mi mới vô đây đừng nói ba láp nghe)
          – Ba trợn, ba trạc (có thể nói gộp là ba trợn): Chỉ người có hành động và nói năng ngang ngược, thiếu văn hóa, thiếu suy nghĩ …)
          – Bạc: Đồi cát
          – Bạo = bão VD: Cơn bạo số 7 sắp tràn vô QT = cơn bão số 7 sắp tràn vào QT
          – Bàu: Vùng đất ruộng thấp trủng thường bị ngập nước
          – Bả: tát (bả cho nó một cái cho bỏ tật nói bậy = tát cho nó một cái cho bỏ tật nói bậy
          – Bắp Mỏ: Chỉ cái miệng.
          – Bấp= vấp VD: bấp cái đội lọi cái răng
          – Bắt hôi = Bắt các con cá còn sót lại (gióng như đi mót lúa …)
          – Béc: mở – béc mắt là thấy chán rồi = mở mắt là thấy chán rồi! – Mưa ham, đòi cho lắm, ăn không hết Béc mẹng dộng vô!
          – Bén: Sắc (dao) dùng riêng, không dùng ghép như từ phổ thông phải là sắc bén. Bén hí: Sắc nghê!
          – Béng: Bánh. Bánh trái, bánh xe.
          – Bẹo: Béo = nhéo, hi hi,im lặng ko tau bẹo cho chừ
          – Bi đan= bàn đạp (Bi đan xe già làng bị hư rồi)
          – Bì Kê: Hộp quẹt, máy lửa (P)
          – Bịn = Vịnh, cầm (Tiếng quê em từ này không có nghĩa là Bịnh cảm các bác à) VD : Bịnh vô cấy cột mà đi kẻo bổ mệ nờ
          – Bòn: Vơ vét.
          – Bọp = bóp VD: Bọp cái bánh xe coi còn hơi không VD: thằng cu tí (tên hồi nhỏ của chú Bờm) vừa bú vừa bọp bú mẹ nó tề
          – Bọp bọp: Một loài họ Ngao, sống ở nước ngọt, màu đen, kích thước lớn đạt trên 7 cm bề ngang.
          – Bót = vót, gọt bút chì (cái nghĩa ni khác bót bà ga à nghe) VD: Mi đi bót cái bút chì cho tau cái
          – Bót bà ga ; Bà ga: Yên sau xe 2 bánh, giá trên nóc xe ôtô (P)
          – Bổ: té, ngã – Bổ ngữa = té ngữa = Ngã ngữa.
          – Bốn: Vụng; Bốn bây = Vụng về; bốn lắm = Vụng quá
          – Bồn = Bồng
          – Bông: Hoa. Cái bông = (một) bông hoa; Bình Bông = Bình Hoa
          – Bôông = bông , bông y tế
          – Bôồng = bồng , bồng con
          – Bơ = một loại từ đệm,có ý nghĩa tương đương với các từ”rồi”,chỉ một việc kế tiếp ->hắn đập em bơ em đập lại
          – Bơ hớ= lanh chanh VD: O vi bớ hớ quá, chuyện của người khác mà O cũng đi thưa kiện
          – Bợ: Bưng bê, đỡ.
          – Bơng = bê bưng Chú Phúc mô rồi bơng dịa thịt gà lên nhậu cho rồi
          – Bợng = Bửng ( miền nam )= Mảng , miếng ( miền Bắc )
          – Bớp: Tát tai, vả vào mồm.
          – Bụ: Vú. Nậy rồi còn rờ bụ mạ = Lớn rồi còn rờ vú mẹ.
          – Bụ nghẹ = lọ nghẹ, than đen nơi nồi chảo VD: chơi bài quẹt bụ nghẹ
          – Bui: Vui vẻ.
          – Búi: Rối ren
          – Bụm mẹng = bưng miệng VD: Chú Bờm bụm mẹng lại kẻo hôi mẹng quái
          – Bun: Đầy, đầy ắp, đầy bun. Cơm thì đơm vừa lưng, mần chi mà bun dư cơm cúng!
          – Bự: To, lớn. Bự tổ chảng = To đại chang = Quá to lớn.
          – Bưa: Chán, ngán, đủ – ăn bưa chưa = Ăn no chưa, ăn ớn chưa, ăn đủ chưa.
          – Bựa ni = hôm này VD: Bựa ni Vi mệt đừ
          -Bựa diếp = mấy ngày trước đó VD: bựa diếp eng có gặp O vi đó
          – Bươi = bới VD: Con gà bươi quào đất tìm ló = Con gà bới đất tìm lúa
          – Bường = bình, thường chỉ bình nấu nước VD: có cái bường không cho O mượn nấu méng nác

          C:
          – Cà rem = kem – VD: ai cà rem không
          – Cả đôống= cả đống – VD: Người giỏi như thằng nớ ngoài quê tau cả đôống
          – Cả vạt= rất nhiều, ý nói quá nhiều – VD: Đồ nớ tau cả vạt (cả đống)
          – Cại chắc: Cãi (cãi nhau, chối cãi)
          – Cà mèn: Cặp lồng. (P)
          – Cà Lơi = con chim sơn ca
          – Cá tràu: Cá lóc, cá Quả
          – Cái chi = cái gì, cái nào – VD: Mi nói cái chi rứa= Mi nói cái gì thế
          – Cá Gáy: Cá Chép
          – Cá trù: Cá tràu = cá lóc.
          – Cây Sầu đâu = cây sầu đông , cây xoan
          – Cáy = gáy VD: gà cáy canh 3 mạ thức con dậy học bài – Cáy: ghét trên cơ thể, đất và da lâu ngày không tắm. Eng Tuấn có cấy lưng cáy không là cáy
          – Cấy : cái , đực cấy = đực cái , con cấy
          – Căn bảy: căn giữa của nhà ba gian (dùng để thờ cúng).
          – Cẵng: Chân (Xem thêm: chin). Lọi cẵng = Gãy chân.
          – Cặm: Cắm. Cặm bông = Cắm hoa. (có khi, có nơi phát âm là gặm. Gặm bông = cắm hoa)
          – Cắm = cắn (cắm lại = cắn lưỡi )
          – Ceng: món canh , súp …
          – Cẹng: Cánh. chim gãy cẹng = chim gãy cánh
          – Chàn = giàn, cũng có thể dùng để chỉ chàn khói – VD chàn mướp= giàn mướp
          – Chóc chóc: Lau chau. Thằng Mưa dỏ mờ cấy mẹng cứ chóc chóc.
          – Chụi = dụi ( đừng chụi tay vô mắt = đừng dụi tay vô mắt )
          – Con cấy: Con gái nhỏ đến chưa chồng nhưng dưới độ tuổi lỡ thì. TN: con cấy con cóc, con gái con đứa
          – Cóc= con nhỏ nhỏ trong lip xe đạp, người nam gọi là con chó – VD: Xe bị trật cóc đạp không chạy
          – Con dái = con nhái vd: đêm ni lên ái tử bắt dái hè
          – Con ôốc = con ốc
          – Con tít= con rít VD Hôm qua chú Bờm thò tay vô cái hang bị con tít cắn cho 1 phát
          – Con bịp bịp = con bìm bịp – VD: thịt chim bịp bịp ăn vô là túi nớ khỏi ngủ luôn
          – Con vè ve= con ve VD: ê đi trặc vè ve không
          – Cọn: Cọng (cọn rau = Cọng rau) Cọn = cõng
          – Côi: Trên – Ở côi tề: ở trên kia
          – Chạc = sợi dây
          – Chẹn = nhánh ( chẹn ló = nhánh lúa )
          – Cổ = củ (cổ khoai lang = củ khoai lang )
          -Cồn : Vùng đất nhô cao hơn so với xung quanh ( Cồn Tiên , đảo Cồn Cỏ …)
          – Cơn : cây , cơn đèn = cây đèn ,cơn chuối = cây chuối
          – Có Mang : chỉ người phụ nữ đang mang bầu ( bụng mang dạ chửa)
          – Cột: Trụ, gốc. Cột điện = Cây trụ điện; cột cây = Gốc cây
          – Côộc= cộc VD: bấp cái cộộc ngã cái uỵch
          – Cột( động từ) : trói , buộc, siết chặt ( muốn ngủ lâu cột trâu cho trặt = muốn ngủ lâu buộc trâu cho chặt)
          – Còm : còng. Lưng còm = lưng còng …cúi thấp lưng xuống.
          – Coi : xem , nhìn. đi coi phim = đi xem phim ; mi coi chi rứa = mi nhìn gì vậy.
          – Cợ: Cỡ
          – Có chi mô nờ = có gì đâu nào
          – Cổi = cởi VD: Chú Lợi cổi cùn dảy xuống rào tắm = Chú Lợi cởi quần nhảy xuống sông tắm
          – Cợi = cưỡi VD: Cu Bo cợi lưng ngựa
          – Cưa : Đi tán tỉnh , làm quen ( quan hệ trai gái )
          – Cươi: Sân trước
          – Chao: Rửa qua trên bề mặt nước. Đem bó rau heo ra chao sạch đất rồi cắt chơ đừng dác Long hí! Chao cẳng (vùng Vĩnh Linh)= Rửa (sơ qua) chân.
          – Chắc: Nhau. Chắc chắn (phổ thông) = Chắc nụi khác In chắc = Giống nhau, ưa chắc hoặc ưng chắc = Yêu nhau
          – Chầu: Chờ : chầu chực, chờ đợi; Chầu rìa: chờ chực một bên. Chà: ui chầu = ui chờ = Ôi chà!
          – Chẹp: Chẹp bẹp = Nằm sát ván (đau chẹp bẹp = Ốm liệt giường)= bị đè đến mỏng dính; Chẹp mỏ: Cãi bị thua, nói bị người ta phản đối nên thua;
          – Chẹ = chiếu VD: lấy chiếc chẹ ngoài hàng rào vô cho mạ
          – Chin: Chân, cẳng. Chin bàn = chân bàn = cẳng bàn.
          – Chỉn: Sợi chỉ, Chỉn chu = Chỉnh chu.
          – Chi dữ rứa = sao nhiều thế VD: Mua bông hồng cho Vi chi dữ rứa
          – Chun: Chui (Chui rúc, chui qua).
          – Chự: Giữ. Chự dà = giữ nhà = trông coi nhà cửa
          – Chực: Rình rập , chờ đợi , ( thằng ăn trộm đứng chực … = thằng ăm trộm đứng rình rập …) ăn chực = chờ đợi người khác dùng bữa là nhào vào ăn. ăn ké.
          – Chắc : Cứng ( vững chắc) và còn nghĩa khác là ” chắc” khi đứng riêng biệt thì nó không có nghĩa , nhưng khi ghép với từ khác lại có nghĩa như : Đập chắc= đánh nhau ; đứng một chắc = đứng một mình
          – Chấp : tỏ ý thách thức (tau chấp luôn cả hai thằng mi = Tao thách luôn cả hai thằng mày )
          – Chành rành : ý nói người vô duyên ) (Thành ngữ QT: Chành rành chựa rựa)
          – Cấu = cào VD: con mèo cấu mặt của Bo = con mèo cào mặt của Bo
          – Cón: Lạnh cóng
          – Cù: Rủ (Cù rủ). Muội với Bờm cù chắc đi chơi.
          – Cụ = cậu VD: Con của O Vi sẽ kêu eng Nguyen bằng cậu hay dượng hè ??
          – Cù két: Tọc lét, cù kít.
          – Cùn: Quần. O Vi mặc cùn lòi tún!
          – Cùn = thiếu sắc bén ( Rựa cùn = rựa không sắc ; lý sự cùn = lý sự thiếu sắc bén)
          – Cựa: Cửa. Cựa đường = Cổng ngõ
          – Cúi: Trốt cúi = đầu gối, Cái cúi = Cái (đầu) gối.
          – Cơn: Cây – Cơn chanh = Cây chanh
          – Chà bong= dăm bông (miền nam), ruốc (miền bắc) – VD: ăn cơm với chà bong
          – Chạn: Chạn Bếp: Kệ, giá treo trên ông đầu râu để đựng củi sấy, thức ăn, đồ màu
          – Chành rành, chèng rèng= lanh chanh, việc không ai nhờ cũng làm VD: O Vi nớ chành rành lắm, không ai mượn hết cũng xong vô mần
          – Chạp: Làm cỏ mộ (tảo thanh) – Giỗ chạp: cúng Ông Bà
          – Chũi = chổi VD: Cu Bo mô rồi cầm cấy chũi ra xuốc cươi coi
          – Chụm = đun, nấu VD: Thằng Mưa chụm cấy nồi rau heo cho mạ tề
          – Chợn: Giỡn. Ví dụ: chợn chó chó lờn mặt
          – Chờng = Giường ( Chú Bờm mần o Hà sập chờng )
          – Chộ: Thấy, nằm mơ. (bựa qua nằm chộ = Hôm qua nằm mơ; Eng Tâm đi với mèo bị vợ chộ = )
          – Chổ: Nhổ Chổ nác méng = Nhổ nước bọt
          – Chọ: có nghĩa đống – một đống, một khoảng, một số (ít). Đau bụng, Toa lét khôn vô, thằng Bo ra góc vườn mần y một chọ!!!!
          – Chúc mồng = con chim chào mào
          – Chụp = bắt,tóm lấy,vồ lấy, cầm lấy (chụp cái thằng nớ lại = bắt cái thằng kia lại ; thằng nớ chụp bụ o tê …)
          – Cực chảng đãn : sự vất vả, mệt nhọc
          – Côống : cống (côống thoát nước = cống thoát nước)
          – Chôồn= chồng, xếp – VD: Chồồng cái ghế lên cái bàn, chôồng chén dịa…
          – Chạng vạng = chập tối VD: Mưa Ham chơi quái, ngày mô cũng chạng vạng mới về, ba mi biết thì chết
          – Chạng ạng = to bè, khá to, rất to
          – Chặng: Một đoạn, một khúc . Eng Tuấn ngó to con rứa mờ cấy nớ O khám được có chặng chơ mấy!
          – Chảng hảng ( đứng chàng hảng , nằm chảng hảng, ngồi chảng hảng ): Thế đứng , ngồi hoặc nằm giang rộng, giạng háng (banh rộng , mở rộng) hai chân. VD : O Vi con cấy mà nằm chàng hảng thiệt vô duyên = O Vi con gái nằm dạng háng thật vô duyên )
          – Cù = rũ rê , lôi kéo ( Thằng Bo nó cù o Vi đi chơi rồi = Thằng Bo nó rũ o Vi đi chơi rồi)

          D: Vần D hay được dùng thay thế âm NH: Dư – Như ; Dà = Nhà ; Dớp = Nhớp……. – Eng Tuấn dớp dệ xợ
          – Dái : con nhái – VD: đêm ni lên ái tử bắt dái hè
          – Dệ: Dễ.
          – Den = mồi lửa, thổi lửa, chụm lửa – VD: O Vi den nồi cơm răng mà nó khét hết hè.
          – Dệ ngai, dễ ngai=coi thường – VD: đừng có dệ ngai cấy thằng dỏ đó, ngó do dỏ rứa chứ cái mỏ hắn dài…một tấc
          – Dên= thồi, thường cho lúa chảy từ thúng xuống nôống rồi gió thổi hạt lép bay đi (từ ni phải 20 điểm đó) – VD: trời gió to ra dên lúa
          – Dịa: Cái đĩa; Cách phát âm khác là địa. Ngốc mập rứa mà bựa mô cũng ăn cả dịa cơm bun!
          – Dị = mắc cở, thẹn thùng – VD: Chú Bờm cứ dòm O chăm chăm O dị òm
          – Dói= chưởi, kêu, la (từ ni lấy ít nhất cũng 20 điểm O hi) – VD: hôm qua Thắng đập thằng Bo mạ thằng Bo tới dói
          – Dòm, dìn: Nhìn
          – Dôi : dư ra , thừa ra , phát sinh thêm (Khối lượng thực tế dôi ra so với dự toán ban đầu = khối lượng thực tế thừa ra (phát sinh) thêm so với dự toán ban đầu )
          – Dọi : đi theo – VD: tau mắc đi làm, đừng có chạy dọi
          – Dú: Thu, dấu, Dú chuối: Ủ chuối cho chín.
          – Dít : kì, kì lưng ; Cu Bo mỗi khi tắm xối xối là xong chớ có dít đất côi thân hình mô = Cu Bo mỗi khi tắm dội dội là xong chứ có kì đất trên thân mình đâu.
          – Dắn = nhắn – VD : Dắn tin cho eng Tuấn = nhắn tin cho anh Tuấn
          – Dãy đực = Con heo nái khi thời kì động đực
          – Diều : nhiều , diều tiên= nhiều tiền
          – Dỏ dỏ: nho nhỏ – VD: Cu Bo dỏ dỏ rứa mà chuyện chi cũng rành
          – Dư ri = như thế này
          – Dư rứa = Như thế kia – VD: phải làm dư ri này=phải làm như thế này
          – Dư thiệt = như thật – VD: chú bờm nói dư thiệt nờ, có ma mô nó yêu chú = Chú bờm nói như thật, không có ma mô yêu chú
          – Du = dâu – VD: con du của già làng khéo ăn khéo nói ghê
          – Dúm củi, dúm bếp= mồi lửa VD: Vô dúm cái bếp cho mạ cái
          – Doọc = mệt – VD: sao mà dọoc cái thai quái= sao mệt cái thai quá
          – Dà = Nhà – VD: cái dà đó to thiệt= cái nhà đó tô thật
          – Dôông = chồng – VD Hai cấy dôông đập chắc trước cươi (ví dụ rất kinh điển)
          – Dường dịn = nhường nhịn – VD: Một điều dịn chín điều lèng
          – Dịn = nhịn, cũng có ý hường nhịn – VD: Sáng ni dịn đói đi học
          – Dãy mã, dẫy mã = chạp mộ, sửa sang lại mồ mã – VD: năm rồi Thắng về quê dãy mã

          Đ:
          -Đao: Con Dao
          -Đạ: Đã. Đạ ngá = Đã ngứa.
          -Đạ chận: đã giận ( chận là giận) VD : táng một bớp tai cho đạ chận = táng một bớp tai cho đã giận
          -Đá giò lái= đá quay một vòng ra sau làm đối phương bất ngờ, cũng có thể chỉ sự thất bại bất ngờ trong tình yêu – VD: thằng nớ bị đá giò lái rồi
          -Đái: Dái , tinh hoàn ( thắt đái = Hai hòn dái bị tụt vào trong ) VD: O Vi đá làm chú Lợi bị thắt đái = o Vi đá làm chú Lợi bị thắt dái)
          -Đại chẳng = to lớn
          -Đai = dai ( đai dư thịt trâu tra = dai như thịt trâu già)
          -Đám= dám, tỏ ý thách thức – VD: Mi đám đụng vô cái móng chân tau không?
          – Đéng = điếng ( Chú Bờm cắm o Hà một méng ở háng đau đéng= Chú Bờm cắn o Hà một miếng ở háng đau điếng )
          – Đéng(danh từ) = Ráy tai
          – Đập: Đánh. vd : Đập chắc = đánh nhau
          – Đìa = ao , hồ
          – Địu = dây dun VD: mấy chạc địu mắc chắc khở khôông ra = mấy sợi dun mắc nhau gở không ra
          – Đam = con cua đồng
          – Đàng: Đường. Con đàng xưa em đi. Đàng quan: Đường lớn
          – Đặt trẹt= ngày đầu tiên cho heo con ăn – VD: heo con nó sắp lớn rồi đặt trẹt chưa O
          – Đấy = đái (o Vi nậy rồi còn đấy trấm = Cô Vi lớn rồi còn đái dầm )
          – Đị: Đõm, Đĩ. Làm đị = Làm đỏm = Làm bộ = Làm dáng = Làm Đõm = làm Đĩ : Chỉ sự se sua trang điểm ăn diện của chị em khác làm! = đi làm: Bán Trôn nuôi miệng
          -Đọ: Đó. Đọ tề = Đó kìa.
          -Đi mánh = đi buôn lậu
          – Đi Sim = Trai gái đi tỏ tình ( dân tộc Vân Kiều )
          – Đi bỏ trầu = Dạm hỏi trước khi cưới
          – Độ cợ : ước đoán kích cỡ (o Vi cao độ cợ 1,6 m = 0 vi cao khoảng 1,6 m)
          – Đọa: Mệt – VD: Mỗi lần thằng Bo vô cho có một từ mần eng cập dật bắt mệt!
          – Đòn triêng : Đòn gánh
          – Đôi: Ném,
          – Đột: Cái lu (sành sứ)
          – Đớp= ăn – VD: ê, mi đớp chưa=ê, mi ăn chưa
          – Đờn = Đàn (đánh đờn = đánh đàn)
          – Đúc tạc= giống nhau như in – VD: Thằng con hàng xóm răng mà giống chú Bờm đúc tạc rứa hèo
          – Đốn: Chặt, đống. Lấy rạ đốn cơn tre = Lấy rựa chặt cây tre; Rác đỏ cả đốn = Rác đổ cả đống.
          – Đợt: Long nhong (ý vô bổ). Bé Mèo mới đi đợt về độ, cái đồ…! Việc dà thì khôn chịu mần!
          – Đợ: Đỡ. Đi xe đạp cho đợ tốn xăng! Ở đợ: Giúp việc, đầy tớ. TN: Bán vợ đợ con
          – Đỡ: Mắc cỡ, xấu hổ.
          – Đọi: cái tô (Thành ngữ QT: Lời nói đọi máu)
          – Địa: Cái đĩa.
          – Đụa = đũa, đôi đũa gắp đồ ăn – VD: Eng Tuấn ăn theo kiểu tây chừ cầm đụa không được mà gắp đồ ăn.
          – Đụi (có vùng, có khi đọc là ụi): Húc
          – Đụn = đống ( đụn rơm = đống rơm ). Eng Tuấn đi ra ngoài hè ẻ cả đụn ui chao là gớm!!!!
          – Để đèng = để dành – VD: chừ ăn một méng béng thôi để đèng ngày mai ăn = giờ ăn một miếng bánh thôi để dành ngày mai ăn
          – Đệc = khờ
          – Đéng -> ráy tai -> đéng trít lỗ tai rồi tề.coi mà khươi ra
          – Đợng = đựng – VD: lấy cái rổ đợng bó rau = lấy cái rổ đựng bó rau
          – Đôông đôông : nóc nhà
          – Đùi cui = dùi cui – VD: Mưa cứ khóc hoài bị ba lấy cấy đùi cui khỏ một cấy
          – Đi đồng = đi ỉa, hay chỉ người đi ỉa ngoài hè, ngoài lòi, ngoài đồng – VD: Hôm nay con nó đi đồng chưa+ hôm nay con nó đi cầu (ỉa) chưa
          – Đưới = dưới (lên côi rừng ,xuống đưới biển = lên trên rừng , xuống dưới biển )
          – Được nời = làm tới VD: Chìu chú Lợn quái nên chú được nời = Chiều chú Lợn quá nên chú làm tới

          E:
          -Eng: Anh , Eng tam = anh em
          – Ẻ: Đại tiện
          – Ếc : ếch VD: Túi qua Thanh Nhiên đi câu 1 oi ếc


          http://tinquangtri.com/tu-dien-tieng...i-g-toi-o.html
          Từ điển tiếng Quảng Trị (G tới O)

          Sau đây là danh sách các từ địa phương Quảng Trị theo vần từ G đến O

          * Chú giải: (P) : Phiên âm bắt nguồn từ tiếng Pháp được Việt Hoá sau đó Quảng Trị hoá mà có.
          (TN): Thành ngữ riêng Quảng Trị
          (VD) Ví Dụ

          G:
          – Gác đờ bu: Chắn bùn xe (P)
          – Gác đờ sên: Chắn xích, hộp xích xe (P)
          – Gáy: Trạng, nói trạng. O Vi biết chi về DTT mà bày đặt gáy!
          – Gặm: Cắm. Gặm cơn = trồng cây (tương đương/xem thêm: cặm)
          – Gân: Liều, gắng, cố
          – Ghi đông = tay lái xe dạp – VD: Ghi đông bị quẹo rồi
          – Gáo = Dụng cụ có cán cầm để múc nước ( Bà con kiểm tra các nơi khác có dùng từ này không ?)
          – Guậy: Phá (Xem thêm Quấy)
          – Giặc = Giật ( Giặc dây thì động rừng = giật dây thì động tới rừng )
          – Giò: Chân, cẵng, cẵng chân. Què giò = què cẵng = què chân
          – Gò: Tán gái
          – Gớm, gớm guốc: Bẩn, Dơ bẩn (tương đương/xem thêm tởm)
          – Gác – Măng – rê: Cái tủ bếp (P)
          – Gác đờ co = người cận vệ ( Từ Pháp hóa )

          H:
          – Hà= thường nói để trẻ nhỏ hả miệng khi cho ăn – VD: hà nè con= hả miệng đi con
          – Hè: Khoảng đất ngoài nhà, sát vách
          – Hôi xoong = mùi hôi của nước tiểu VD: Mưa nậy rồi mà còn đấy trấm hôi xoong quá
          – Họt: Học tập, học hỏi.
          – Họoc dọi= làm theo, copy lại ý của ai đó…(dọi có rồi nhưng dọi này nghĩa khác à nghe) – VD: O Vi họọc dọi chú Bờm làm từ điển.
          – Họn : Họng (viêm họn = viêm họng)
          – Hôn = Hông Bồn em trẹo hôn = Bồng em vẹo hông
          – Hộn = hỗn – VD: Thằng Mưa dỏ mà nói hộn ghê ta ơi
          – Hun = Hôn ( chú Bờm hun o Hà = chú Bờm hôn o Hà )
          – Hèo: (nhẹ hơn) hử, hở, răng ngu rứa hèo = sao ngu thế hử

          I:
          – Ì: Ừ. Ì đọ: Ừ đó
          – In: Giống – In chắc = Giống nhau.
          – Inh: Ồn.
          – “Im” ->bóng dim ->đi vô trông im mà đứng

          K:
          – Khoai xẫm= khoai bị nước ngâm nước mưa hay bị ngập lụt – VD: Thằng mô ăn khoai xẫm mà địt hôi thế
          – Khu: Mông, Khu=mông Cái khu O nớ sệ rứa chắc mắn con lắm. – Khu: đít. TN: Cong khu = Cực lực, hết sức (Cong đít lên mà làm!)
          – Khun = khôn VD: chú Lợi nậy rứa chứ chưa chắc khun hơn thằng Mưa mô nờ = chú Lợi lớn vậy chứ chưa chắc khôn hơn thằng Mưa đâu à .
          – Khớn: chừa, khiếp, Xem xêm (Tương đương): Tởn – VD chú Bờm dại 1 lần rồi mà vẫn chưa khớn
          – Kí: Cái – Kí lô – Ki lô (trọng lượng), Kí ni nì = cái này này. (Có vùng phát âm: Kị ni = cái này)
          – Kị: Giỗ (Ông Bà). Hôm ni kị Mệ = Hôm nay giỗ Bà.
          – Kiết=kiết mọt, keo kiệt, tận cùng – VD: thằng nớ hênh hoang rứa chơ nghèo kiết xác
          – Khui= mở – VD: khui cái chai bia=mở cái chai bia
          – Khở = gở – VD : Bờm ngồi buồn khở cứt mụi = Bờm ngồi buồn gở cứt mũi
          – Khéo, chảu = đẹp ( con nớ coi cũng khéo đó = cô đó nhìn cũng đẹp đó )
          – Khải = gải – VD: Eng Nguyen ngồi khải ghẻ ngá = anh Nguyen ngồi gải ghẻ ngứa
          – Khươi-> lấy ra -> khuơi cái nút chai tui với
          – Khôông: không , khôông biết = không biêt
          – Khôông ai đáy= không ai dạy – VD: đổ ba trợn con không ai đáy
          – Khoóc = khóc ( 0 Hà khoóc hết nước mắt vì Bờm = 0 Hà khóc hết nước mắt vì Bờm)

          L:
          – Lả: Lửa
          – Lã: Nước lã = nác lã = nước lạnh (chưa đun sôi)
          – Lái: Lưới (dùng đánh bắt cá)
          – Láng = trơn , nhẵn , phẳng, (láng xậy = bóng loáng)
          – Lại: Cái lưỡi – Lọi lại = gãy lưỡi. O Vi nói diều mà chưa bị lọi lại!
          – Lạt = nhạt (tình cảm chi mà lạt dư nước Ôốc = tình cảm gì mà nhạt như nước ốc )
          – Lạt lẽo = lạnh nhạt , thờ ơ ( Lúc ni o Vi đối xử với tui lạt lẽo quái = Lúc này o Vi đối xử với tui lạnh nhạt quá)
          – Lắng: Lạnh , nguội (Con không ăn cơm đi cả lắng mất = Con không ăn cơm đi kẻo nguội mất )
          – Lay cay: (gây) phiền hà, (ưa) rắc rối, (thích) phức tạp
          – Lậy: Lấy
          – Ló: Lúa
          – Lộ: lỗ ,lời lộ = lời lỗ
          – Lô cốt = công sự dùng trong chiến đấu phòng ngự
          – Lò xô = bếp dầu thường để nấu nướng VD: Có cái lò xô không cho mượn về nấu cơm bựa ni hết củi rồi
          – Lon ghi gô (lon gui gô): Lon bằng nhôm, màu trắng, của quân đội ngày xưa dùng đựng cơm, lương khô. (P)
          – Loi: Đấm, thụi
          – Lòi : Dư, thừa , lồi , lộ ra , phơi bày ra , đưa ra , hở hang … VD : O vi mặc quần để lòi lộ tún ; con rắn rắn lòi đầu ra khỏi hang ; dấu đầu lòi đuôi = dấu đầu hở đuôi.
          – Lọi: Gãy. Lọi giò = gãy chân.
          – Lâm: Lầm, sa lầy, sa đà.
          – Lẹo: Bị nhọt ở mi mắt Nghiã khác (từ lóng) là giao hợp
          – Lèng: Lành. Áo quần lèng lặn = Áo quần lành lặn = ăn mặc chỉnh chu.
          – Leng pheng= Lén phén = xớ rớ lại gần. O Vi leng pheng với chú Phúc có ngày ăn H2SO4 đậm đặc.
          -Lơng xơng: Lơm xơm; ko biết rõ,chắc là ko có việc gì làm,cứ đi tàm bậy tàm bạ… Thằng Ku Bo nó chạy lơng xơng một chút nữa là nó trợt chin bổ lăn quay = Thằn Ku Bo nó chạy loanh quanh vòng vòng một tí xíu nữa là sẩy chân té lăn quay
          – Lợ: Lỡ – Đao Lợ: Dao Lỡ = Dao cau (Huế) – Loại dao dài, bản lớn; Lợ thời = lỡ thời, lỡ làng.
          – Lờ: Đồ vật dùng bắt cá, Bộ phận sinh dục nữ
          – Lồông: Lồng, vùng (động từ) Lồn lên = lồng lên = Vùng lên. Lồn ! dệ xợ = Lồng lên (mãnh liệt) dữ dội! -Lộ: Lỗ, cái lỗ. Buôn ri lộ rồi, cua chui vô lộ.
          – Loọc = Luộc ( loọc rau = luộc rau)
          – Lộ nghẹ: Mồ hóng bám quanh xong nồi
          – Lộ khu = lỗ đít VD: lộ khu eng Nguyen toàn là sẹo = lỗ đít anh Tuấntoàn thẹo
          – Lảm nhảm: Nói nhiều, nói đi nói lại một chuyện.
          – Lúi húi. mần chi mà lúi húi đưới bếp rứa. Lúi húi nớ nghĩa là cặm cụi làm chi đó Bo.
          – Lưa = còn – VD : Vi ăn méng béng ni nếu lưa thì eng Tuấn ăn = Vi ăn miếng bánh này nếu còn thì anh Tuấn ăn
          – Lủng: Thủng. Quần bị lủng 1 lộ đại chang nơi mông
          – Luynh = Dầu Nhớt (nhờn) bôi trơn động cơ
          – Liệng= ném, quăng – VD: cái đồ dỡ hơi đó liệng quách cho rồi
          – Leng queng : loanh quanh

          M:
          – Ma leng: Ma lanh, ranh mương. Cu Long ma lanh lắm!
          – Mạ: Mẹ
          – May ơ= đùm, hai cái trục trước và sau của xe đạp nơi gắn tăm vô đó
          – Mần: Làm
          – Mần lẫy= giận hờn, làm cái chi đó không vừa và cắt ngang giữa chừng không làm nữa – VD: O Vi mần lẫy không ăn cơm tề
          – Mắc = bận – VD: O Vi mấy ngày ni mắc việc quái bơ chú Bờm nối thơ một chắc
          – Mi : Mày
          – Miềng: mình (chỉ người đang nói) – Bé Oanh còn dỏ mờ đám nói: Miềng biết yêu rồi!!!
          – Mụ: bà già, Chỉ phụ nữ đã có chồng: con mụ ni, mụ nớ. Mụ = Mệ Bà cô Nội, Mệ Bà cô ngoại. Thưa mụ mà về đi con!
          – Mự = mợ – VD : Mự là vợ của cụ = Mợ là vợ của cậu
          – Mụi: Mũi – Cái mặt của chú Bờm không chổ mô dòm ra vẻ hết, mui sứt, mẹng rộng chạc oạc, mụi trẹt, néc lông cả bợng. Rứa mà Vi ưng bất đoạ!
          – Mụt = Chỉ khối u trên cơ thể ; mầm cây mới đâm chồi.. ( mụt nhọt ; mụt măng)
          – Mun=tro – VD: xúc mun đổ hầm cầu
          – Mẹng: Miệng VD: cấy mẹng chú Bờm to in cấy trạc
          – Mệ= bà – VD: mệ nội=bà nội
          – Mo = Cái gàu múc nước
          – Mỏ: Miệng – VD: Mỏ con nớ dài hai phân
          – Mỏ ác = một vị trí trên chỏm đầu con người ( huyệt Bá hội )
          – Màng tang = Thái dương ( một vị trí trên cơ thể con người )
          – Mợ = mỡ bôi xe hay mỡ ăn – VD: Cho xin chút mợ bôi xe
          – Mô: đâu – VD: đi mô cho tau đi với
          – Mọoc: Mọc. Mọt cơn = Mọc cây
          – Mơi=mai – VD: Ngày mơi đi chơi nghe
          – Mót = lượn lặt những cái gì còn sót lại ( mót lúa , mót đậu …)
          – mốt= kia – VD: Ngày mốt đám cưới eng
          – Một phân hai sãi=Một vừa hai phải (TN)
          – Mắt trọ trọ = Mắt mở to , trố , nhìn mà không chớp mắt…
          – Mẹc: Mặc, ăn mặc; Nghĩa khác (do cách phát âm) là cái trẹt -xem thêm cái trẹt.
          – Méc = mách ( đem kể lại một chuyện gì đó cho người khác ) – VD : Mi là thằng ăn trộm , tau về méc mạ tau .
          – Mẹt: chỉ con gái, phụ nữ: thị mẹt).
          – Méng: Miếng. O Vi ăn chi ngon rứa, cho xin méng!
          – Mói: Muối VD: Mói mặn dệ sợ = muối nặn dể sợ
          – Mồng trót: cái phao câu của loài long vũ (gà, vịt)
          – Mồng đóc: Âm vật (Một vật nhỏ nằm ở bộ phận sinh dục phụ nữ)
          – Mén: Nhỏ – VD: Thằng Mưa mén mén mà ranh mương = thằng Mưa nhỏ nhỏ mà ranh mương
          – Mẹng: Miệng
          – Mẽng trèng , mẽng chai = mãnh vỡ của gạch ngói , chai lọ thủy tinh …
          – Mò : Sờ soạng , sờ mó – Mò: Đi mò mò = đi không ai thấy = đi mà ít thấy. Đang ngồi dậu thấy Tuấn mò tới! – Từ điển ni răng không ai mò vô hè?!
          – Mui: môi (Mui méng = mui miếng = môi méng = Môi). Vi ăn chùng dính đầy mui mén mà cại!
          – Mửa= ói, nôn – VD: Chú bờm mới uống có 2 chai mà mửa tùm lum
          – Moóc = Móc ( moi moóc = moi moóc ( hay để ý đến chuyện riêng tư của người khác )
          – Mược= mặc, từ ni mà chưa có thiệt vô lý hết sức – VD: Chú Phúc không chịu mược cùn thì cho chú ở lỗ

          N:
          – Náng : nướng, nước thịt – VD: Hôm qua O náng một con tôm hùm thiệt là to
          – Năng = Căng (Khi xưa C moọc trước răng , bây chừ răng rụng C vẫn năng dư đờn – Hò Quảng Trị
          – Nạo: Làm nạo = Làm đại = Làm cho rồi – Khác Nạo vét!
          – Nạm: nắm ( của chú Phúc to thiệt , o Hà cầm một nặm không hết = của chú Phúc to thiệt , o Hà cầm một nắm không hết)
          – Nằm trấp = nằm úp mặt
          – Nằm ngả = nằm ngữa mặt
          – Nằm Nơi = Phụ nữ đang nghĩ ngơi sau khi sinh đẻ
          – năm ngoái = năm vừa rồi – VD: Năm vừa rồi QT ít thành viên hơn năm ni
          – Ngợ = ngượng – VD: Tình cờ gặp người yêu củ, O ngợ kinh khủng
          – Nậy: Lớn. Thằng Mưa mới đó mà chừ nậy ghê hè!
          – Nần bà : đàn bà , phụ nữ
          – Ngá: Ngứa. Thấy TQT mấy bựa ni bị hack mà ngá gan!
          – Ngáng = chặn ngang , chắn lại.. ( đưa chinh ngáng mần thằng nớ bổ trấp =đưa chân chặn lại làm thằng kia té sấp )
          – Ngó: Thấy, nhìn thấy, nhìn.
          – Ngọ, cựa ngọ = Ngõ, cửa ngõ – VD: Dà em có hoa vàng trước ngọ
          – Ngót: Hết, Hết sạch, hết cỡ.
          – Nhỡi: Chơi. Đi nhỡi = đi chơi.
          – Nác: Nước. Uống méng nác = Uống miếng nước. Nác lã = nước chưa đun sôi.
          – Nè: Cành của cây tre (Chỉ các cành lá sau khi róc khỏi thân cây tre)
          – Neng: Răng (cái răng)
          – Néc: Nách – Vi hôi néc lắm, đừng lại gần.
          – Ngái: Xa (xa xôi, cách trở).
          – Ngạ = Hết ( Khi đứng riêng không có nghĩa , khi kết hợp các từ khác nghĩa là HẾT. VD : Chừng đó là ăn không ngạ rồi = chừng đó là ăn không hết rồi )
          – Ngoảy: Quay, ngoái, ngoảnh. Ngoảy đi: Quay đi; Ngoảy lại: Ngoái lại = Ngoảnh lại.
          – Ngoẻn: ăn (Tả ý ăn nhanh chóng). Địa Gà bự rứa mà eng Nguyen ngoẻn xí bơ hết
          – Ngủ cục: Ngủ gục
          – Nì, Ni: Này
          – Nỏ: Không. Nỏ biết = Không biết
          – Nôống= cái nia lớn, cái ni hình như chỉ có Quảng trị – VD: lấy cái nô ống dên lúa
          – Nơm= chơm – VD: Cái nơm= cái chơm
          – Nớ : đó , cấy nớ = cái đó
          – Nót: nuốt
          – Nói láo = nói sai sự thật , nói dối
          – Nói ba láp ba đế = nói năng thô thiển thiếu suy nghĩ
          – Nói cà lăm = nói lắp , nói lặp
          – Nói Trạng = nói phóng đại , tự đề cao mình
          – Nước méng = Nước miếng , nước bọt
          – Nốp: Nốp rọt = Nóng ruột (có vùng đọc là nốt rọt)
          – Nốt: Dân vạn đò
          – Nờ: Nào (từ đệm) Có chi mô nờ = có gì đâu nào.
          – Núp: Trốn. Tè núp (tè núp tích bắn): Trò chơi Đánh trận giả của trẻ con.
          – Núm = cầm một vật gì đó – Ví dụ: Chú Bờm đi mô cũng núm cấy lưng cùn kẻo sợ bị tuột = Chú Bờm đi đâu cũng cầm cái lưng quần kẻo sợ bị tuột.
          – Nứng: Hiện tượng cương cứng của dương vật , âm vật
          – Nôốc = Chỉ những người dân sống trên vạn đò
          – Nhớp = bẩn, dơ
          – Nẹt: Đuổi, rượt – VD: mần chi mà như bị ma nẹt rứa ??
          – Nọ: Không. ” Nọ biết nơi tề”
          – Nút lại: hôn nhau ( dùng lưỡi)
          -Nghị = Suy nghĩ ( nghị mãi không ra = suy nghĩ mãi không ra )
          – Nóng hủi=nóng quá – VD: O nớ không biết phải sốt không mà nóng hủi

          O:
          – Oi = giỏ đựng cá – VD: Cho eng mượm cái oi đi nơm cá
          – Ồ ngai: Gai con mắt
          – Ôn: Ông, Nhớ lại (phổ thông)
          – Ỏm: ồn ào, ỏm tỏi: Ồn ào quá (ý coi thường, khinh)
          – Ồ ngai: Gai mắt (sự việc chướng tai gai mắt)
          – Òm: từ này phải đi theo 1 từ nữa mới có nghĩa tăng lên nghĩa của từ trước nó, như thúi òm, dê òm… (chú Thắng nớ dê òm)
          – Thúi òm = quá hôi. Đứa mô ăn khoai xẫm mà địt thúi òm
          – Ốc dộc: Hổ thẹn! Tệ quá đi, mắc cỡ quá đi
          – O = cô, dì – VD: O vi=cô Vi
          – Ôông = ông VD Ôông nớ bơ hớ ghê , đái giửa đàng
          – Ơn say = từ ni khó giả thích lắm, vì chỉ có người QT mới nói – VD:Mới mấy năm mà nó lớn dữ vậy hà, ơn say chưa, nếu không gặp nhau ngoài đường không nhận ra
          – Ót = Gáy (Vị trí nằm phía sau tiếp giáp đầu và cổ )
          – Ở lổ = Không mặt quần áo , khỏa thân ( Bắt gặp chú Bờm với o Hà ở lổ )
          – Ôống troóng = cuống họng


          http://tinquangtri.com/tu-dien-tieng...i-p-toi-y.html
          Từ điển tiếng Quảng Trị (P tới Y)

          Sau đây là danh sách các từ địa phương Quảng Trị theo vần từ P đến Y

          * Chú giải: (P) : Phiên âm bắt nguồn từ tiếng Pháp được Việt Hoá sau đó Quảng Trị hoá mà có.
          (TN): Thành ngữ riêng Quảng Trị
          (VD) Ví Dụ


          P
          – Phét: Nói láo, nói trạng. Nói phét tấu: Nói Khoác lác
          – Phét mơ tuya: Dây khoá kéo (P)
          – Phỉnh = lừa, nói dối VD: Thằng nớ bị phỉnh (lừa) mà không biết
          – Phạng giường = Làm sạch cỏ bờ của ruộng lúa – VD: Hôm ni rẻng không đi phạng giường cho cậu cái
          – Phuốc tăng = cổ xe đạp

          Q:
          – Quớ: Hoảng. Lúa quớ = Loạng quạng
          – Quệ = mệt, nhừ tử, mỏi – VD: Khi túi eng Nguyen bị vợ bắt trả bài chừ quệ 2 cái cẳng luôn. Hồi đêm anh Tuấn bị vợ bắt trả bài giờ mệt hai cái chân luôn.
          – Quẹp: (tính từ) thua thiệt, Quẹp mỏ = Trít mồm, ăn hết quẹp mỏ! (câu hỏi tu từ) = ăn hết thì lấy gì mà ăn?
          – Quẹt: Dễ dàng (ý khinh thường – đồ quẹt nớ tau làm xí xong)
          – Quái: Lạ, quá, kỳ. Quái ghê = Lạ ghê = Lạ nhỉ; Lỳ quái = Lỳ quá; Quái lạ = Kỳ lạ; lạ quái = Lạ quá.
          – Quấy: Phá, khuấy, guậy, quậy. Đừng quấy = Đừng phá khuấy, đừng khuấy, đừng guậy= Đừng quậy phá.
          – Quào = một động từ cào, cấu
          – Quáng ca = quáng gà ( người bị bệnh về mắt )
          – Quén = vén ( chú Lợi ngủ dậy không quén mùng = chú Lợi ngủ dậy không vén mùng )

          R:
          – Rập: Đạp mái.
          – Rặt rặt = Con chim sẻ
          – Răng: Sao – Vì răng? = Tại sao?
          – Rọ= cái lồng xúc heo – VD: lấy cấy rọ xúc heo trên chàn bếp
          – Rế = con dế mèn
          – Rọt: Bụng, lòng dạ
          – Rọn: Ruộng, Rọn ló = Ruộng lúa (Nói rọn thôi là đủ nghĩa ruộng lúa – Người QT chỉ gọi duy nhất nơi trồng lúa là ruộng)
          – Rún: Lỗ rốn, lỗ tún, Eng Tâm cấy rọt thì to, rún tòi cả thước rứa mà còn dậu!
          – Rạ: Rựa, gốc của cây lúa. Cơn rạ = cây rựa (Cây như cây mác nhưng cỏ mũi khoằm mỏ két)
          – Rứa: Thế – Rứa à = Thế à.
          – Reng: Ồn ào không đáng có (bựa qua nhậu xí mà mụ vợ reng ỏm y!) Reng: Vùng Long Hưng = Răng
          – Rím: Giấu kỹ (Thành ngữ QT: Rím rím mà rịm ra troi nghĩa là: Im lặng vậy mà trung tiện là ra giòi)
          – Xối = dội
          – Rớ = Cất vó ( một hình thức đánh bắt cá )
          – Rào : Con sông nhỏ , con suối
          – Rẽng : rãnh rổi. – VD: Rẽng quá nọ bít mần chi nơi
          – Rêng = rên rỉ – VD: Khi túi O nghe eng Tuấn rêng dữ dằn (Hồi đêm Vi nghe anh Tuấn rên rỉ kinh khủng)
          – Rờ=sờ – VD: ê rờ xem cái bánh xe tau có xẹp không= sờ xem cái bánh xe coi có xẹp (hết hơi) không
          – Rú = Rừng cây thấp ở đồng bằng

          S:

          – Sạc rê= vắt chỉ, vắt sổ – VD: đem áo quần (mới cắt) đi sạc rê
          – Sập: Cái Sập – rương lớn dùng để đựng (Lương thực dự trữ, vật dụng..) Phía trên nằm ngủ.
          – Sẩy cỏ (có người gọi trẩy cỏ): Tảo mộ
          – Sáng trợt = khoảng thời gian từ 7 giờ – 8g30 sáng ( ngủ chi mà sáng trợt mới dậy = ngủ dậy muộn )
          – Săng = gỗ ( lẻ săng = khúc gỗ )
          – Séc= tò ý thách thức với những việc khó làm – VD: tau séc mi đó có dám tán O Vi không?
          – Sèm: Thèm. Thấy mà sèm = Thấy mà thèm
          – Sẹo: Thẹo. Mặt tui mụn diều nên cả sẹo y!
          – Sốn: Sống. ”Sốn trong đời sốn, cần có một tấm lòng!”
          – Sớn xác: Lanh chanh lập cập bất cẩn -> cái tội sớn xác ko chịu bỏ
          – Su: Sâu (chỉ độ sâu).
          – Sói : hói ( sói trôốc = hói đầu)
          – Sương= gánh – VD: đi sương cho mạ đôi nước

          T:

          – Tắn = rắn – VD: con tắn= con rán
          – Tấy = con rái cá ( thú mỏ vịt )
          – Trấy: trái – VD: Trấu dâu ni chua dệ sợ = trái dâu này chua kinh khủng
          – Tầm vất tầm vơ : tam vất tứ vơ
          – Tau, tui : tao , tôi , mình…
          – Táp: Đớp, cắn, ăn (Thường dùng cho súc vật) Bị chó táp = bị chó đớp = bị chó cắn.
          – Thần đân: (Lỳ, liều) Không vâng lời can ngăn để tiếp tục làm 1 việc gì đó – Vẹ đừng mà cứ làm thần đân!
          – Tra: Già, Gác gỗ trên cao sát mái. Ông nớ tra òm = Ông đó già ghê! Ló bỏ lên tra cả lụt = Lúa chất lên gác tránh lũ.
          – Thẹo: Sẹo
          – Trặt = chặt ( cột cho thật trặt= cột cho thật chặt )
          – Trặc: dụ dỗ con ve leo lên cành của mình rồi bắt – VD: đi trặc vè ve không O vi? , Trặt chân (bổ trặc chân = té trậc chân)
          – Théc: Ngủ. (đi ngủ)
          – Trẹt: cái Dần lúa gạo (thúng mủng dần sàn),Trẹt: Mỏng (tẹt). Trẹt lẹt: chỉ độ dầy (quá mỏng, không như mong muốn)
          – Thinh: Im, làm thinh. TN: Thinh như đột đột = Êm như díp = Im như cái lu. Thinh nào = Im lặng nào = Làm thinh đi.
          – Thỗ : Dỗ (dụ dỗ , nói nhỏ nhẹ , nói dịu ngọt …(VD: thỗ em cho nó nín đi = dỗ em cho nó nín đi)
          – Thổ: Đánh đập. Đừng hỗn tau thổ chết tổ mi chừ.
          – Thùi địt (thù địt): Cây lá mơ. Nói nghe thùi địt = Nói chả ra gì = Nói nghe vô duyên.
          – Thụi: Đấm.
          – Trẹo = Vẹo
          – Trít: (trịt) Bịt, bịt lại, bị bí, kiết. Trít ống nước = bịt ống nước, Trít mọt = kiết mọt: keo kiệt, bủn xỉn (Lỗ nhỏ như lỗ mọt mà cũng … trít luôn); Tưởng eng Tuấn giỏi, hỏi mấy câu bơ trít! Có vùng đọc là Trịt
          – Tréc = Cái xoong nồi bị hư hỏng được dùng vào việc khác
          – Tróc: (Động Từ) Tróc trọ = Gõ đầu, Tróc ly nước = Uống ly nước, Tróc cái = Làm (một) cái.
          – Troi: Con giòi (bọ ruồi)
          – Trọi = gõ ( dùng tay gõ vào đầu gối hoặc đầu )
          – Tron: Trong; Nước tron = Nước trong; Tron nớ = Trong kia.
          – Trọt: Chỗ trước mấi hiên, hàng giọt nước mái trước nhà
          – Trốt: Đầu người, động vật. Trốt cúi: Đầu gối.
          – Trôn: Bộ phận sinh dục Nữ.
          – Trôộng = lủng, rách. – VD: cấy cùn của Cu Bo bị trôộng một lộ to đại chang sau khu = cái quần của Cu Bo bị lủng một lỗ to tổ bố sau đít
          – Truồng= chuồng – VD truồng heo nhà eng sạch như khách sạn
          – Trọ: Như Trốt, sọ (đầu sọ)
          – Trợt = trượt ( trợt chin bổ xuống cống = trượt chân ngã xuống cống)
          – Trú: Trấu (vỏ lúa)
          – Tru: Con Trâu
          – Trù : Trầu. ăn trù = ăn trầu. …. Em chi mà em, mấy chú danh lên, mệ kiếm mấy đồng ăn trù!!!…
          – Trù = định – VD: Tau trù ngày mai đi câu cá mà ngày mai trời mưa rồi
          – Trự : Đồng ( đơn vị tiền tệ ) – VD : Không có một trự mà ăn trầu = Không còn một đồng mà ăn trầu
          – Tưng tửng=mát mát, điên điên (nghĩa là chưa điên nhưng có chạm chi đó) Chú Phúc tưng tửng rứa mà giỏi ghê
          – Trảy: Rôm sảy (trẻ em) Nổi trảy: Nổi nóng, nổi giận
          – Tàu bay = máy bay
          – Trẩy: Làm sạch sẽ, Trẩy mộ = Tảo mộ, Trẩy cây: cắt bỏ cành lá, trẩy khoai (sắn): dỡ vồng khoai (sắn) thu hoạch. Cu Long hoang ra trẩy cơn roi đập đã = Cu Long hư ra chặt (rồi vót) cây roi đánh đã.
          -Trày = Chày ( tiếng trày trên sok BomBo = tiếng chày trên sok bom bo )
          -Tràng=sàng – VD tràng gạo=sàng gạo
          -Trậm trầy trậm trật = lơ ngơ, hậu đậu, trật lên trật xuống – VD: Đêm tân hôn chú Phúc trậm trầy trậm trật mãi mới hoàn thành nghĩa vụ.
          – Trữa: Giữa, ở giữa
          – Trừa = chừa, để dành – VD: Chú Lợi ăn kẹo mà không trừa cho O một méng = chú Lợi ăn kẹo mà không chừa (để dành) cho O một miếng
          – Trùi = Vật nhọn bị bào mòn ( cái đục này trùi quá = cái đục này mòn quá )
          – Trến: Doạ, hù doạ
          – Trệt: Mệt, hết sức. trệt kẹng = mệt, mệt quá (Kẹng: chân)
          – Túm:Tóm, nắm, bắt, giữ, gom (động từ)
          – Tún: Lỗ rốn, lỗ rún.
          – Túi = tối ( trời túi như đêm 30 )
          – Tẹt mốt: Phích nước (P)
          – Tê: Kia – VD: qua bên tê lấy tau cấy áo = qua bên kia lấy tôi cái áo
          – Tề: Kìa – VD: Bên nớ tề = bên kia kìa
          – Tế: Cúng, chưởi, mắng (la rầy như đang cúng tế!). Cái nớ để mà tế à (câu hỏi tu từ)= Cái đó để mà làm gì (để mà cúng à!). Bựa qua Thắng bị mạ tế = Hôm qua Thắng bị mẹ mắng.
          – Tọa: ngồi – VD: mời quý vị an tọa = mời quý vị ngồi
          – Toóc = Gốc rạ còn lại sau khi gặp lúa
          – Tọa lọa: Tan nát, tóa hỏa (Thành ngữ QT: Tọa lọa tầm tinh – Hư hỏng tan nát hết/hoặc = tóa hỏa tam tinh).
          – Tòi: Lòi ra, thòi ra.
          – Tởm, tởm lợm: Dơ, Dơ bẩn (Tương đương/xem thêm: gớm, gớm guốc)
          – Tởn: Khiếp
          – Tợp: Húp, uống. Tợp tớp: Tưởng bở, tưởng dễ ăn!, lanh chanh, tưởng dễ.
          – Trạc= cái rổ thường dùng để gánh phân – VD: Xúc phân vô cái trạc gánh lên trồng khoai
          – Tự thị = tự tiện – VD: Chú Bờm tự thị chỉnh sửa bài của eng Tuấn mần eng nớ giận tím gan = chú Bờm tự tiện chỉnh sửa bài của anh Tuấn làm anh đó giận tím gan
          – Trẹt= cái nhỏ hơn cái nốông, thường đựng những cái nhỏ để phơi, có khi dùng cho heo con ăn – VD: Cho mượn cái trẹ về phơi dưa cải
          – Trỉa -> gieo trồng -> O Vi đi trỉa đậu với Bo ko?
          – Triếc = con ngõng trời
          – Trúc: Bổ, té. O Vi diện kiến dung nhan Bờm bơ trúc ngữa, quái đẹp, choáng!
          – Trung : trong , trung dà = trong nhà
          – Trốốc cúi = đầu gối – VD: Trốc cúi O bị sưng một cục
          – Trôông= mong, ngóng – VD: Mấy hôm ni Thắng đi mô o Vi trôông đọa hi
          – Thiệt=thật – VD:Nói như thiệt=nói như thật
          – Trôống= thường chỉ đem cá cho vào thau nước, hay chậu nước khi chưa mần thịt – VD: Đem mấy con cá tràu trốông cho mạ cái
          – Trôồng= dọn, sắp xếp – VD: Ăn xong rồi mà không ai trôồng chén đọi hết= ăn xong rồi mà không ai dọn chén bát hết
          – Truống= đem xuống – VD: truống nồi cơm xuống cho mạ cái
          – Té ra= thì raVD: té ra thằng Mưa nó ưa O nớ à
          – Thúi òm= hôi quá – VD: đứa mô xả mà thúi òm
          – Tù tê= ngày kìa

          U:
          – Un = vun , vón lại , gom lại ( un luống rau = vun luống rau )
          – Um: Ồn (Chỉ sự ồn ào). Chuyện không có chi mà làm um y!
          – Ưng: Ưa, Thích, muốn

          V:
          – Vẹ: vẽ, bảo (chỉ bảo)
          – Vọt: Nhảy vọt, phóng
          – Vồn: Vồng. Vồn khoai, vồn sắn = Vồng khoai Vồng sắn. Đi xớt vồn khoai = Đi vun vồng trồng khoai
          – Vá – Cái Vá: Môi (muỗng lớn)
          – Vày = vò VD : Vày nạm rơm ( vò nắm rơm)
          – Vứt: Vất (Vất bỏ)
          – Vụng = Vũng , hố ( Vụng bom = hố bom )

          X: Âm X hay dùng thay âm S – Xướng dệ xợ = Sướng dễ sợ, xổ xách = sổ sách …..
          – Xán: Quănng, ném. – VD: Ê bà tợn là tau xán cái Phụ Khoa trữa mặt đó!
          – Xàm Xàm: Nói tầm bậy, nói lung tung.
          – Xăm= lốp xe đạp – VD: Đi cửa hàng mua mấy cái xăm xe đạp
          – Xắp : Cắt ( đi xắp tóc = đi cắt tóc ). Eng Tuấn chuyên môn đi xắp tóc bằng lại, dổ râu bằng neng!
          – Xeng: Màu xanh
          – Xên: Cái xẻng
          – Xéc = xách ( chú Bờm đi xéc nước cho o Vi tắm )
          – Xâm: Xâm xoàng. Bựa qua việc diều làm xâm luôn = Hôm qua việc nhiều làm xâm xoàng luôn!, Xâm mình, liều mình.
          – Xỏ: Xâu (xâu chỉ luồn kim) TN: Xỏ lá, xỏ que=xỏ lá ba que = lươn lẹo, ranh mương
          – Xớ rớ = Léng phéng = Leng pheng (Xem thêm leng pheng)
          – Xum: Xúm. Xum vô = Xúm vào
          – Xót= giả, làm cho nhỏ ra – VD: Đi xót cho mạ ít mói= đi giả (cho nhỏ ra) cho mạ ít muối
          – Xọc=chọc, thường dùng khi lấy cái que, đùi đưa vào một cái lỗ – VD: lấy cái que xọc vô cái hang

          Y:
          – Ỷ y: tin chắc chắn. Việc tọa lọa rồi mà còn ỷ y – Hỏng việc tơí nơi mà còn chắc chắn
          – Y chang , y đúc = chỉ hai hiện tượng hay hai sự vật gióng nhau ( hai đứa ni gióng nhau y chang )

          Nguồn: quangtrionline

          Comment


          • Font Size
            #6
            Từ điển từ ngữ địa phương miền Trung
            https://chiase.org/threads/bo-tu-die...en-trung.2365/

            Rào cản ngôn ngữ thật là bất tiện, chưa nói gì đến trong và ngoài nước, chỉ trong VN thôi mà 3 miền có ngôn ngữ và giọng điệu hoàn toàn khác biệt.

            Tôi đại diện dân Miền Trung sau một thời gian tìm hiểu giọng điệu, ngôn ngữ của con người Miền Nam hôm nay tôi cũng chia sẻ ngôn ngữ và giọng điệu con người Miền Trung. Hi vọng mọi người sẽ hiểu hơn về giọng điệu và ngôn ngữ của người miền trung, tránh bỡ ngỡ và không nghe rõ những gì chúng tôi nói.

            Những từ ngữ "khác thường", từ ngữ địa phương

            Mô = Đâu

            Tê = Kia

            Răng = Sao

            Rứa = Thế

            Tề = Kìa

            Hè = Nhỉ

            Nớ = Đó

            Chộ = Thấy

            Chi = Gì

            Cẳng = Chân

            O = cô

            Ả = chị

            Gấy = vợ

            Nhôông = chồng

            Con gấy = Con gái

            Cơn = Cây

            Trôốc = Đầu

            Con ròi = Con Ruồi

            Con Mọi = Con Muỗi

            Cắm = Cắn

            Dới = Dưới

            Truồng lợn = Chuồng heo

            Ôông = Ông

            Soong = Song (nồi)

            Trốc cúi: Đầu gối

            Đau rọt: Đau lòng, Đau bụng

            Lả: Lửa

            Khu mấn: Khu= đít, mấn= váy (ai muốn hiểu kiểu chi thì hiểu).

            Mọi Đút = Muỗi đốt

            Cảy = sưng

            Túi = tối

            Rú, đôộng = Rừng, Núi

            Nhởi = Chơi

            Gáo = Ca

            Nỏ, khôông = Không

            Triều = Chiều

            Lặt = Nhặt

            Quăng = Vứt, ném

            Trửa = Giữa

            Lộ = Lỗ

            Đàng = Đường

            Chủi = Chổi

            Chưởi = Chửi

            Khun = Khôn

            Ngài = Người

            Nhít = Nhất

            Su = Sâu

            (Ban) Ngay = (Ban) Ngày

            Cánh Cựa = Cánh Cửa

            Gin = Gần

            Cụng = Cũng

            Phẩy = Phải

            Hắn = Nó

            Mắc, Mần = Làm

            Tỉ = Tí

            Giừ = Giờ

            Với người Nghệ An thì đa số từ có dấu (~) đều được nói thành dấu ()

            Hà Tĩnh = Hà Tịnh

            Chi tiết: Hà Tịnh Nhà Choa

            Mi: Có nghĩa là Mày

            Tau: Có nghĩa là Tao

            Mô: Có nghĩa là Đâu?

            Ví dụ: Mi đi mô đó?

            Thì dịch ra giọng Bắc là Mày đi đâu đấy?

            Tê: Có nghĩa là Kia

            Ni: Có nghĩa là Này

            Rứa: Có nghĩa là Thế

            Răng: Có nghĩa là Sao

            Ví dụ:

            Răng rứa?

            Dịch ra giọng Bắc là sao thế?

            Ngày Mốt: Có nghĩa là Ngày Kia

            Ví dụ:

            Mốt tau mới về.

            Ngày kia tao mới về.

            Đọi: Có nghĩa là Bát, miền nam gọi là chén

            Trôốc: Có nghĩa là Đầu

            Tru: Có nghĩa là Trâu

            Lè: Có nghĩa là Đùi

            Nhễ: Từ này í chê bai có thể dịch là Chuối (mạnh hơn nhiều) or Bựa

            Chộ: Từ này có nghĩa là Thấy

            Chi: Có nghĩa là Gì?

            NỎ: Có nghĩa là KHÔNG.

            Ví dụ: Nỏ đi, NỎ cho.. nhưng mà không có câu Đi NỎ hay Cho Nỏ đâu nhá.. từ NỎ chỉ đứng trước động từ..

            Bổ: Có nghĩa là Ngã

            Ví dụ:

            Nó bị bổ xe~Nó bị ngã xe.

            Trôốc Gúi: Có nghĩa là Đầu Gối

            Còn từ Khu mấn thì chứa giải thích được, anh em giải thích dùm

            Ngái: Có nghĩa là Xa

            Ví dụ:

            Nhà mi cách trường có ngái không?

            Nhà mày cách trường có xa không?

            Nác: Có nghĩa là Nước

            Nước uống í, nác chè, nác sôi: Nước chè, nước sôi

            Môi: Có nghĩa là Muôi

            Cái muôi chan canh í, miền nam gọi là cái Giá

            Su: Có nghĩa là Sâu

            VD: Ao ni su ri~~> Ao này sâu thế

            Hầy: Có nghĩa là Nhở

            Ví dụ:

            Hay hầy~~> Hay nhở

            Or Ai đó hầy~~> Ai đấy nhở

            Đài: Còn có 1 nghĩa nữa là cái gàu múc nước

            Cươi: Có nghĩa là Sân

            Nương: Có nghĩa là Vườn

            Rọng: Có nghĩa là Ruộng

            Mần: Có nghĩa là Làm

            Ví dụ:

            Cha mệ cháu đi mần rọng rồi ạ~~> cha mẹ cháu đi làm ruộng rồi ạ

            Mệ: Có nghĩa là mẹ

            Con ròi: Có nghĩa là con Ruồi

            Choa: Có nghĩa là bọn tao

            Rồi em của mẹ thì gọi là Gì

            Em của bố thì gọi là O

            Một số điển tích trong việc sử dụng tiếng Nghệ

            Có lần Cụ Phan Bội Châu lâm vào thế bí nhưng lại gỡ được rất hay. Đại để thế này (đoạn ni tui nhớ nó chính xác mấy), gặp mấy o đang ăn ngô rang, bị trêu:

            Thiếp trao cho chàng một nạm ngô rang

            Đúc nơi mô mà mọc, thiếp theo chàng về không.

            Không phải tay vừa, cụ Phan ta mới mần 1 câu:

            Ở mô mà nắng không khô,

            Mà mưa không ướt, đúc vô mọc liền

            Dịch:

            Thiếp trao cho chàng một nắm ngô (bắp) rang

            Gieo ở đâu mọc được, thiếp theo chàng về không

            Ở đâu mà nắng không khô,

            Mà mưa không ướt gieo vào mọc ngay

            Theo Ninh Viết Giao - Hát phường vải

            Một số bài thơ biên dịch từ điển tiếng Nghệ

            Nghệ an choa miền trung lắm gió

            Có cửa lò biển hát quanh năm

            Cùng quê bác xứ sở nước tương

            Với thanh chương, nhút mặn chua cà

            Bà già con trẻ có ngôn ngữ riêng

            Đứa mô chưa ghé một lần

            Ráng học cho kỹ điển từ sau đây

            Con trâu thì gọi là tru

            Con giun thì gọi là trùn đó nha

            Con gà thì kêu con ga

            Còn con cá quả gọi ra cá tràu

            Con tru lại gọi là trâu

            Bồ câu thì gọi cu cu đó nà

            Con ruồi lại gọi là ròi

            Con troi thì gọi con giòi nhớ chưa

            Con bê còn gọi là me (con bò con)

            Con mọi là muỗi khi nghe đừng cười

            Mà cười là choa chửi thẳng tưng

            Trốc cha mi khái cạp là đầu bố mày hổ tha

            Mả cha là ngôi mộ của ba

            Mải Ông cha mi xéo là Ông bố mày *** đi

            Muốn ở đất nghệ phải biết chuyên cần

            Học nhiều từ ngữ âm vần nghe chưa

            Con người thì gọi con ngài

            Còn từ ni nữa nói nghe cùng rầy (ngượng)

            Mà có nói thì bây mới biết

            Hun – hôn, cưa – tán, váy – mấn

            Môi – mui, đầu – trốc, ngứa – ngá

            Sờ - rờ, nằm mơ gọi là mớ

            Nhớ ghi cho kỹ kẻo rồi lỗ to

            Khủy chân thì gọi lắc lè

            Cơn – cây, Chủi – chổi, gốc – cộc

            Sân – cươi, đường - đàng, rú - núi

            Nhởi – chơi, lười – nhác, mần – làm đó nghe

            Đêm nằm nếu đói đừng lo

            Nhảy vô nhà bếp tìm nồi nấu cơm

            Ngọ nguậy là cái đũa bếp

            Giáp đít là cái rế nồi hiểu chưa

            Nước – nác, đọi – bát, mươn – bàn

            Nướng - náng, luộc – looc, muối – mói

            Gói – đùm, chum – vại, rổ - rá

            * * * dê là quả cà dài

            Mắm tôm – ruốc, Thóc – ló, ngó - nhìn

            Lỡ yêu ngài (người) ở đất quê choa

            Thì nên chịu khó học từ nhiều mà cưa

            Nhưng học ri vẫn chưa ăn thua

            Cái "gầu" thì gọi cái "đài"

            Ra "sân" thì bảo ra ngoài cái "cươi"

            "Chộ" tức là "thấy" em ơi

            "Trụng" là "nhúng" đấy, đừng cười nghe em

            "Thích" chi thì bảo là "sèm"

            Khi ai bảo "đọi" thì đem "bát" vào (miền nam gọi là chén)

            "Cá quả" thì gọi "cá tràu"

            "Vo trôốc" là bảo "gội đầu" đấy em

            Nghe em giọng Bắc êm êm

            Bà con hàng xóm đến xem chật nhà

            Khi "mô" sang "nhởi" nhà "choa"

            Bà "o" đã nhốt "con ga" trong chuồng!

            Em cười bối rối mà thương

            Thương em một, lại trăm đường thương quê

            Gió lào thổi rạc bờ tre

            Chỉ qua giọng nói cũng nghe nhọc nhằn

            Chắt từ đá sỏi đất cằn

            Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.

            Và đây là 1 đoạn tiếng miền trung, mọi người cùng dịch nhé!

            Hải: Thằng Minh, mi về khi mô rứa?

            Minh: Mới về bựa qua. Răng, khoẻ không? Gấy con chi chưa mi?

            Hải: Chưa gấy con chi. Mần nỏ đủ ăn nựa. Mi thì răng?

            Minh: Cụng chưa. Nghe nói em Hạnh gin cưới à?

            Hải: Ậy, tau cụng nghe nói rứa. Tuần sau phẩy. Có lẹ mi được đi đám cưới hắn đó.

            Minh: Giừ rảnh không? Sang nhà Hạnh tỉ đi.

            Hải: Đi.

            Minh: Lâu giừ có hay gặp bọn Quân, Hoàng, Sơn chi không?

            Hải: Thỉnh thoảng. Quân nớ cụng lo mần ăn cả. Thằng Sơn mới cưới vợ bựa tháng 10.

            Dịch xong mọi người cùng ghi 1 câu ra rồi dịch sang tiếng miền trung nhé!
            Từ điển từ ngữ địa phương
            https://chiase.org/threads/bo-tu-die...en-trung.2365/

            Rào cản ngôn ngữ thật là bất tiện, chưa nói gì đến trong và ngoài nước, chỉ trong VN thôi mà 3 miền có ngôn ngữ và giọng điệu hoàn toàn khác biệt.

            Tôi đại diện dân Miền Trung sau một thời gian tìm hiểu giọng điệu, ngôn ngữ của con người Miền Nam hôm nay tôi cũng chia sẻ ngôn ngữ và giọng điệu con người Miền Trung. Hi vọng mọi người sẽ hiểu hơn về giọng điệu và ngôn ngữ của người miền trung, tránh bỡ ngỡ và không nghe rõ những gì chúng tôi nói.

            Những từ ngữ "khác thường", từ ngữ địa phương

            Mô = Đâu

            Tê = Kia

            Răng = Sao

            Rứa = Thế

            Tề = Kìa

            Hè = Nhỉ

            Nớ = Đó

            Chộ = Thấy

            Chi = Gì

            Cẳng = Chân

            O = cô

            Ả = chị

            Gấy = vợ

            Nhôông = chồng

            Con gấy = Con gái

            Cơn = Cây

            Trôốc = Đầu

            Con ròi = Con Ruồi

            Con Mọi = Con Muỗi

            Cắm = Cắn

            Dới = Dưới

            Truồng lợn = Chuồng heo

            Ôông = Ông

            Soong = Song (nồi)

            Trốc cúi: Đầu gối

            Đau rọt: Đau lòng, Đau bụng

            Lả: Lửa

            Khu mấn: Khu= đít, mấn= váy (ai muốn hiểu kiểu chi thì hiểu).

            Mọi Đút = Muỗi đốt

            Cảy = sưng

            Túi = tối

            Rú, đôộng = Rừng, Núi

            Nhởi = Chơi

            Gáo = Ca

            Nỏ, khôông = Không

            Triều = Chiều

            Lặt = Nhặt

            Quăng = Vứt, ném

            Trửa = Giữa

            Lộ = Lỗ

            Đàng = Đường

            Chủi = Chổi

            Chưởi = Chửi

            Khun = Khôn

            Ngài = Người

            Nhít = Nhất

            Su = Sâu

            (Ban) Ngay = (Ban) Ngày

            Cánh Cựa = Cánh Cửa

            Gin = Gần

            Cụng = Cũng

            Phẩy = Phải

            Hắn = Nó

            Mắc, Mần = Làm

            Tỉ = Tí

            Giừ = Giờ

            Với người Nghệ An thì đa số từ có dấu (~) đều được nói thành dấu ()

            Hà Tĩnh = Hà Tịnh

            Chi tiết: Hà Tịnh Nhà Choa

            Mi: Có nghĩa là Mày

            Tau: Có nghĩa là Tao

            Mô: Có nghĩa là Đâu?

            Ví dụ: Mi đi mô đó?

            Thì dịch ra giọng Bắc là Mày đi đâu đấy?

            Tê: Có nghĩa là Kia

            Ni: Có nghĩa là Này

            Rứa: Có nghĩa là Thế

            Răng: Có nghĩa là Sao

            Ví dụ:

            Răng rứa?

            Dịch ra giọng Bắc là sao thế?

            Ngày Mốt: Có nghĩa là Ngày Kia

            Ví dụ:

            Mốt tau mới về.

            Ngày kia tao mới về.

            Đọi: Có nghĩa là Bát, miền nam gọi là chén

            Trôốc: Có nghĩa là Đầu

            Tru: Có nghĩa là Trâu

            Lè: Có nghĩa là Đùi

            Nhễ: Từ này í chê bai có thể dịch là Chuối (mạnh hơn nhiều) or Bựa

            Chộ: Từ này có nghĩa là Thấy

            Chi: Có nghĩa là Gì?

            NỎ: Có nghĩa là KHÔNG.

            Ví dụ: Nỏ đi, NỎ cho.. nhưng mà không có câu Đi NỎ hay Cho Nỏ đâu nhá.. từ NỎ chỉ đứng trước động từ..

            Bổ: Có nghĩa là Ngã

            Ví dụ:

            Nó bị bổ xe~Nó bị ngã xe.

            Trôốc Gúi: Có nghĩa là Đầu Gối

            Còn từ Khu mấn thì chứa giải thích được, anh em giải thích dùm

            Ngái: Có nghĩa là Xa

            Ví dụ:

            Nhà mi cách trường có ngái không?

            Nhà mày cách trường có xa không?

            Nác: Có nghĩa là Nước

            Nước uống í, nác chè, nác sôi: Nước chè, nước sôi

            Môi: Có nghĩa là Muôi

            Cái muôi chan canh í, miền nam gọi là cái Giá

            Su: Có nghĩa là Sâu

            VD: Ao ni su ri~~> Ao này sâu thế

            Hầy: Có nghĩa là Nhở

            Ví dụ:

            Hay hầy~~> Hay nhở

            Or Ai đó hầy~~> Ai đấy nhở

            Đài: Còn có 1 nghĩa nữa là cái gàu múc nước

            Cươi: Có nghĩa là Sân

            Nương: Có nghĩa là Vườn

            Rọng: Có nghĩa là Ruộng

            Mần: Có nghĩa là Làm

            Ví dụ:

            Cha mệ cháu đi mần rọng rồi ạ~~> cha mẹ cháu đi làm ruộng rồi ạ

            Mệ: Có nghĩa là mẹ

            Con ròi: Có nghĩa là con Ruồi

            Choa: Có nghĩa là bọn tao

            Rồi em của mẹ thì gọi là Gì

            Em của bố thì gọi là O

            Một số điển tích trong việc sử dụng tiếng Nghệ

            Có lần Cụ Phan Bội Châu lâm vào thế bí nhưng lại gỡ được rất hay. Đại để thế này (đoạn ni tui nhớ nó chính xác mấy), gặp mấy o đang ăn ngô rang, bị trêu:

            Thiếp trao cho chàng một nạm ngô rang

            Đúc nơi mô mà mọc, thiếp theo chàng về không.

            Không phải tay vừa, cụ Phan ta mới mần 1 câu:

            Ở mô mà nắng không khô,

            Mà mưa không ướt, đúc vô mọc liền

            Dịch:

            Thiếp trao cho chàng một nắm ngô (bắp) rang

            Gieo ở đâu mọc được, thiếp theo chàng về không

            Ở đâu mà nắng không khô,

            Mà mưa không ướt gieo vào mọc ngay

            Theo Ninh Viết Giao - Hát phường vải

            Một số bài thơ biên dịch từ điển tiếng Nghệ

            Nghệ an choa miền trung lắm gió

            Có cửa lò biển hát quanh năm

            Cùng quê bác xứ sở nước tương

            Với thanh chương, nhút mặn chua cà

            Bà già con trẻ có ngôn ngữ riêng

            Đứa mô chưa ghé một lần

            Ráng học cho kỹ điển từ sau đây

            Con trâu thì gọi là tru

            Con giun thì gọi là trùn đó nha

            Con gà thì kêu con ga

            Còn con cá quả gọi ra cá tràu

            Con tru lại gọi là trâu

            Bồ câu thì gọi cu cu đó nà

            Con ruồi lại gọi là ròi

            Con troi thì gọi con giòi nhớ chưa

            Con bê còn gọi là me (con bò con)

            Con mọi là muỗi khi nghe đừng cười

            Mà cười là choa chửi thẳng tưng

            Trốc cha mi khái cạp là đầu bố mày hổ tha

            Mả cha là ngôi mộ của ba

            Mải Ông cha mi xéo là Ông bố mày *** đi

            Muốn ở đất nghệ phải biết chuyên cần

            Học nhiều từ ngữ âm vần nghe chưa

            Con người thì gọi con ngài

            Còn từ ni nữa nói nghe cùng rầy (ngượng)

            Mà có nói thì bây mới biết

            Hun – hôn, cưa – tán, váy – mấn

            Môi – mui, đầu – trốc, ngứa – ngá

            Sờ - rờ, nằm mơ gọi là mớ

            Nhớ ghi cho kỹ kẻo rồi lỗ to

            Khủy chân thì gọi lắc lè

            Cơn – cây, Chủi – chổi, gốc – cộc

            Sân – cươi, đường - đàng, rú - núi

            Nhởi – chơi, lười – nhác, mần – làm đó nghe

            Đêm nằm nếu đói đừng lo

            Nhảy vô nhà bếp tìm nồi nấu cơm

            Ngọ nguậy là cái đũa bếp

            Giáp đít là cái rế nồi hiểu chưa

            Nước – nác, đọi – bát, mươn – bàn

            Nướng - náng, luộc – looc, muối – mói

            Gói – đùm, chum – vại, rổ - rá

            * * * dê là quả cà dài

            Mắm tôm – ruốc, Thóc – ló, ngó - nhìn

            Lỡ yêu ngài (người) ở đất quê choa

            Thì nên chịu khó học từ nhiều mà cưa

            Nhưng học ri vẫn chưa ăn thua

            Cái "gầu" thì gọi cái "đài"

            Ra "sân" thì bảo ra ngoài cái "cươi"

            "Chộ" tức là "thấy" em ơi

            "Trụng" là "nhúng" đấy, đừng cười nghe em

            "Thích" chi thì bảo là "sèm"

            Khi ai bảo "đọi" thì đem "bát" vào (miền nam gọi là chén)

            "Cá quả" thì gọi "cá tràu"

            "Vo trôốc" là bảo "gội đầu" đấy em

            Nghe em giọng Bắc êm êm

            Bà con hàng xóm đến xem chật nhà

            Khi "mô" sang "nhởi" nhà "choa"

            Bà "o" đã nhốt "con ga" trong chuồng!

            Em cười bối rối mà thương

            Thương em một, lại trăm đường thương quê

            Gió lào thổi rạc bờ tre

            Chỉ qua giọng nói cũng nghe nhọc nhằn

            Chắt từ đá sỏi đất cằn

            Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.

            Và đây là 1 đoạn tiếng miền trung, mọi người cùng dịch nhé!

            Hải: Thằng Minh, mi về khi mô rứa?

            Minh: Mới về bựa qua. Răng, khoẻ không? Gấy con chi chưa mi?

            Hải: Chưa gấy con chi. Mần nỏ đủ ăn nựa. Mi thì răng?

            Minh: Cụng chưa. Nghe nói em Hạnh gin cưới à?

            Hải: Ậy, tau cụng nghe nói rứa. Tuần sau phẩy. Có lẹ mi được đi đám cưới hắn đó.

            Minh: Giừ rảnh không? Sang nhà Hạnh tỉ đi.

            Hải: Đi.

            Minh: Lâu giừ có hay gặp bọn Quân, Hoàng, Sơn chi không?

            Hải: Thỉnh thoảng. Quân nớ cụng lo mần ăn cả. Thằng Sơn mới cưới vợ bựa tháng 10.

            Dịch xong mọi người cùng ghi 1 câu ra rồi dịch sang tiếng miền trung nhé!

            Comment


            • Font Size
              #7
              GIỌNG BÌNH ĐỊNH

              Đào Đức Chương



              Bài thuyết trình trong “Hội Nghị Quốc Tế về Tiếng Việt: Lịch Sử và Giảng Dạy”

              tại Viện Viện Học ở Westminster (California, USA) ngày 7- 7- 2007





              Điểm đặc biệt của dân tộc ta là suốt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ xưa đến nay, người Kinh đều nói một thứ tiếng và tất cả các dân tộc thiểu số, ngoài tiếng nói riêng của dân tộc mình, họ cũng nói rành tiếng Việt. Hơn thế, trên toàn quốc, người Việt Nam đều dùng một thứ chữ viết. Tuy nhiên, nước ta trải dài qua nhiều vĩ tuyến, điểm cực Bắc thuộc xã Lũng Cú huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang ở 23º 23’ phút Bắc vĩ tuyến, điểm cực Nam (không tính hải đảo) là mũi Cà Mau ở 8º 30’ Bắc vĩ tuyến; nước ta lại có nhiều sông ngòi và núi non chắn ngang, nên địa hình và phong thổ mỗi nơi một khác làm ảnh hưởng đến giọng nói. Vì thế, trong cái chung về ngôn ngữ thì ở mỗi miền lại có thổ ngữ và giọng nói đặc trưng cho vùng đó. Tuy vậy, sự cách biệt không nhiều, nên bất cứ người ở khác vùng nói chuyện, vẫn hiểu.

              Đất Bình Định chạy dài từ đèo Bình Đê (phía Bắc) đến đèo Cù Mông (phía Nam) đều có chung một giọng nói. Tuy nhiên nếu để ý, mà phải là người địa phương mới nhận biết được, giọng nói của người ở vùng Bắc Bình Định (từ Bồng Sơn trở ra) cứng hơn một tí, vì hơi giống giọng Quảng Ngãi.

              Bàn về giọng Bình định, thử xét qua các điểm về Thổ ngữ, Thổ âm, Lối nói Bình Định, Nguồn gốc giọng nói, Đặc điểm giọng nói và sau cùng là Tầm ảnh hưởng.

              A – THỔ NGỮ

              Ngày nay, nhờ phương tiện truyền thông tân tiến và giao thông tiện lợi, việc tiếp xúc giữa dân cư các vùng không còn bị cách trở, cô lập. Bởi thế, một số tiếng địa phương (phương ngữ) không còn tính cách riêng tư của một vùng, một số khác bị đào thải vì không còn thích hợp nữa. Tuy nhiên, với yếu tố phong thổ của mỗi vùng, vẫn còn một số thổ ngữ và thổ âm đặc trưng cho địa phương đó, đủ sức vượt mọi hoàn cảnh để tồn tại với thời gian.

              Cũng như các tỉnh khác, Bình Định có nhiều thổ ngữ, cấu tạo bởi hai yếu tố: biến thể từ một tiếng đã có sẵn nhưng vẫn giữ nguyên ngữ nghĩa, hoặc từ ngữ không biến đổi nhưng hiểu theo một nghĩa khác với nghĩa chữ ban đầu. Dưới đây, chưa thể gọi là liệt kê đầy đủ số thổ ngữ của Bình Định, nhưng có đủ mặt các loại thổ ngữ vừa nêu trên.

              I – THỔ NGỮ TIÊU BIỂU

              01 – Ảnh mơi: còn gọi là Đảnh mơi hay Thảnh mơi tức là sáng ngày mai, sáng mai. Thổ ngữ này rất phổ biến trong vùng, ca dao Bình Định có câu:

              Ai dìa ai ở mặc ai,

              Áo già ở lại ảnh mơi mới dìa.

              Mặc dù “ai” bắt vần với “mơi” không được chỉnh như tiếng “ai” và “mai”, nhưng người Bình Định không quen gọi là “sáng mai.”

              02 – Bãi tạt rảnh: dẹp đi cho rồi.

              Thí dụ: Có chút việc mà làm không xong, bãi tạt rảnh

              03 – Báng họng: cổ họng

              Thí dụ: Để cho tui nói cái đã, sao cứ chận ngang cái báng họng.

              04 – Beng: so sánh, bì. Bài chòi Bình Định có câu:

              Con vợ tui tốt tợ tiên sa,

              Coi trong thiên hạ ai mà dám beng.

              05 – Bườm: nói trại từ tiếng “buồm”, là tấm vải dày hay cói đan, căng trên thuyền để hứng gió, nhờ sức gió đẩy thuyền chạy. Trong bài Vè Các Lái (hát ra), lưu hành tại Bình Định, có thổ ngữ này:

              Thuận bườm xuôi gió một phen,

              Ghé vô cửa Giã trong miền Hòn Mai.

              06 – Cái: tất cả, thảy đều. Thổ ngữ xưa, nay không dùng. Trong văn bản Hát bả trạo, lưu hành tại Bình Định, ở phần mở đầu có dùng thổ ngữ này:

              Tổng hậu (ra lệnh):

              Ớ bá trạo!

              Cái khai thuyền hầu trạo.

              Con trạo (đồng thanh):

              Dạ!

              07 – Cành nanh hay cành hanh: đành hanh. Trẻ em hoặc phụ nữ trẻ có thái độ ngang bướng, đòi phải được lãnh phần hơn đồng lứa với nó một cách vô lý.

              Thí dụ: Đứa bé đòi độc quyền nằm bên mẹ, không cho anh em của nó được cùng nằm chung. Người mẹ bèn mắng: “Con nhỏ cành nanh quá!”

              08 – Cầm đũa: khi ngồi vào bàn ăn, người Bình Định tiếp khách bằng câu nói “mời cầm đũa” tức là mời ăn.

              09 – Cha chả: cùng nghĩa với thán từ “chà,” thường dùng trong những tuồng hát bội Bình Định, đặt trước câu nói để biểu lộ sự ngạc nhiên, bực tức, hay tán thưởng.

              Thí dụ: Trong tuồng Trầm Hương Các của Đào Tấn, phần cuối: Bá Lộc đài xây xong, vua Trụ mở hội Diêu Trì, thỉnh tiên phó yến. Đát Kỷ bèn mời đồng loại là đám yêu tinh, giả làm quần tiên đến dự. Trong lúc quá chén, lũ yêu để lộ chân tướng, nên gấp rút cáo lui.

              Mở đầu lớp 16, bầy yêu nói: “Cha chả là say thôi! Tốc tốc phản hồi động lý, Man man phi liễu tiên đài” (Chóng chóng trở về hang động, Mau mau rút khỏi đài tiên).

              10 – Chẹ: còn gọi là chớ ẹ, tương đương với tiếng “mà” đặt ở cuối câu để biểu thị ý cầu xin, năn nỉ, hay khẳng định, hoặc giải thích, với tính thuyết phục người đối thoại. Vậy “chẹ” là tiếng đệm, tiếp sức cho lời thỉnh cầu mạnh lên.

              Thí dụ: Đứa em nhỏng nhẻo nói: “Anh Hai cõng em đi chẹ!”

              11 – Chộp rộp: dùng thay cho chữ “chộn rộn.” Trước kia người Bình Định rất quen dùng, nên thường thấy trong bài vè cổ, nay không còn thông dụng nữa:

              Tao làm tội tao chịu cho,

              Bay không chộp rộp sợ lo nỗi gì.

              (Vè Chú Lía)

              12 – Chớp ảnh: còn gọi là chốp ảnh, chộp ảnh, tức chụp ảnh. Theo nghĩa thông thường, trước kia người ta dùng chữ “chớp ảnh” hay “chớp bóng.” Nay dùng chữ “chiếu phim”, đều chỉ chung cho việc chiếu ánh sáng qua phim đã ghi hình, để hình ảnh ấy hiện lên màn ảnh. Ở Bình Định chữ “chớp ảnh” lại có một nghĩa khác là dùng máy hình để chụp ảnh.

              Thí dụ: Sau một tấm ảnh, thay vì ghi là: “Chụp ảnh tại…ngày.. tháng.. năm…”, thì người Bình Định, nếu dùng thổ ngữ, lại đề là: “Chớp ảnh tại…”

              13 – Chui cha: tiếng tán thán được đặt trước câu nói để biểu lộ sự ngạc nhiên, trầm trồ, than thở, giải bày…

              Thí dụ: Chui cha mày quơi (ơi)! Tao mới giừa (vừa) đau một trận giữ (dữ) lắm.

              14 – Chưng hửng: theo nghĩa thông thường là sửng sốt, rất ngạc nhiên, tạo trạng thái ngẩn người, vì sự việc xảy ra trái với dự đoán. Nhưng đối với người Bình Định, còn dùng từ ngữ “chưng hửng” với nghĩa là: nói năng vô duyên, lảng nhách, không ăn nhập vào đâu cả.

              Thí dụ: Người em bày tỏ một ý kiến gì đó, người chị không vừa ý, bèn nói: “Chưng hửng quá!”, hoặc nói: “Chưng hửng nà!”

              15 – Dẫy na: tương đương với tiếng “vậy hả”

              Thí dụ: Người con khoe:

              – Mẹ ơi! tháng này con học đứng nhứt lớp.

              Người mẹ vui mừng đáp:

              – Dẫy na.

              Ngoài ra còn có các tiếng: Dẫy nghen: vậy nhé; Dẫy á: vậy đó.

              16 – Dẹ: gớm, ghê; tỏ ý chê bai, không đồng tình với ý người đối thoại.

              Thí dụ: Thằng A nói với B: “Con C đẹp quá!”

              Thằng B bĩu môi nói: “ Dẹ!”

              17 – Dện: nện, tác động mạnh từ trên xuống.

              Thí dụ: Tao dện cho nó một đạp.

              18 – Dến: đánh với tác động ngang.

              Thí dụ: Mày dến cho nó một tát tai.

              19 – Dí, thá, dớn dọ, dọ: các thổ âm này là tiếng dùng làm âm hiệu để điều khiển trâu, bò trong việc cày bừa và chăn dắt. “Dí” là khẩu lệnh cho bò đi lệch về bên phải, “thá” bên trái, “dớn dọ” đi chậm chuẩn bị dừng, “dọ” đứng hẳn lại, không đi nữa.

              20 – Dìa: thay cho chữ (đi) “về.” Văn bản bài Vè Các Lái (hát vô) chép:

              Nhà Bè nước chảy chia hai

              Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.

              nhưng người Bình Định quen hát:

              Nhà Bè nước chảy chia hai

              Ai dìa Gia Định, Đồng Nai thì dìa.

              21 – Dọi: tiếng lóng của dân chài, chỉ hiện tượng dậy sóng ở biển khơi, khi có Ông (tức cá voi) xuất hiện:

              Đến khi phụ mẫu rằng nghe,

              Thấy tin lên dọi quay lui trở về.

              (Hát bả trạo)

              22 – Dữ ngư: rắn mặt, lờn mặt. Tiếng để nói trẻ con không vâng lời, khó dạy bảo. Địa phương có câu khuyên: “Thương con phải kín đáo kẻo nó dữ ngư.”

              23 – Đứng: đấng (danh từ), chỉ cho người được suy tôn vì có công lao, sự nghiệp hay phẩm cách cao quý đáng trọng.

              Biết mặt lúc này mới biết,

              Đứng (đấng) làm người có việc phải lo.

              (Hát bả trạo)

              24 – Ẻ mà: dùng như chữ “nhưng mà,” nay không còn thông dụng nữa.

              Trong tuồng Hộ Sanh Đàn của Đào Tấn, văn liệu dẫn chứng, ở đoạn Dương Tú Hà giận chồng có tên là Tiết Nghĩa mà lại nhẫn tâm làm việc đại bất nghĩa, nên bà đã thắt cổ tự tử. Tiết Nghĩa hay tin, bèn nói với quân hầu:

              “Ẻ mà đáng kiếp ! Quân bay,

              Thi hài nọ sơn trung mai táng (đem chôn trong núi) đi cho rảnh.

              25 – Giã: tiếng chỉ cho làng đánh cá ở ven biển. Trong bài Vè Các Lái (hát vô) có thổ ngữ này:

              Cửa Giã có hòn án ngoài,

              Các lái thường ngày hay gọi Lao Xanh.

              “Cửa Giã” trong bài này là cửa đầm Thị Nại.

              26 – Hé: luôn luôn đứng sau câu để vừa hỏi vừa khẳng định: Mạnh giỏi hé?

              hoặc để khen ngợi, trầm trồ: Đẹp quá hé!.

              27 – Hử: ngửi, hít vào bằng mũi để nhận biết, phân biệt mùi vị.

              Thí dụ: Cá ương, hử nghe mùi hôi.

              28 – Hữ: biến thể của trạng từ “hả,” thường đặt ở cuối câu hỏi, nhằm xác định thêm điều mình đang nghi vấn.

              Trong tuồng Hộ Sanh Đàn của Đào Tấn, văn liệu dẫn chứng, trước khi Tú Hà quyên sinh vì giận chồng, đã có đoạn: Tiết An vào báo cho bà biết việc Tiết Nghĩa (chồng của bà) đã tham danh lợi, lừa bắt ân huynh là Tiết Cương, giải nộp cho Võ Hậu. Khi Tiết An vừa mới nói: “Dạ, phu nhân hữu cấp sự” (Dạ bẩm phu nhân có việc gấp). Tú Hà đoán việc chẳng lành, vội hỏi ngay: “Hà sự hữ?” (Việc chi hả).

              29 – Í chui: tiếng tán thán, thốt ra vì đau đớn không chịu đựng được, khi bị một lực tác động mạnh vào cơ thể.

              Thí dụ: Í chui, (cây) gai đâm đau quá!

              30 – Lèo: dây cột buồm.

              Nới lèo rán [1] lái mau mau

              Châu Me, Lò Rượu sóng xao Hòn Nhàn.

              (Vè Các Lái – Hát vô)

              31 – Lúa co: tên của một loại lúa có hạt gạo đỏ. Ca dao Bình Định có câu:

              Đừng ham gạo trắng thơm tho,

              Lúa trì cùng với lúa co chắc lòng.

              32 – Lừa: là động từ, nói trại từ tiếng “lùa”

              Thí dụ: Nông dân lừa trâu ra đồng ăn cỏ.

              33 – Mược: cũng là động từ, biến thể từ tiếng “mặc,” nhưng vẫn giữ nguyên ngữ nghĩa: Để tùy ý, không thèm nói đến, hoặc không biết gì đến. Không để ý đến, coi như không có gì, tuy biết rõ là có trở ngại, nguy hiểm. Ca dao trong vùng có câu:

              Nem chua chợ Huyện

              Giấy quyến Sa Huỳnh

              Nẫu xa mược nẫu

              Dẫu gì đi nữa

              Hai đứa mình đừng xa.

              34 – Na: tương đương với chữ “sao,” biểu thị ý nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên. Trong bài thơ Tạ Ơn Năm Đầu của Việt Thao có dùng thổ ngữ này:

              Thân bèo năm tháng hẫng trôi,

              Gió đem cái lạnh hay đời lạnh na?

              35 – Nại: Theo các từ điển [2], “nại” là ruộng muối, chỗ làm muối. Nhưng với thổ ngữ Bình Định, tiếng “nại” chỉ dùng để gọi vùng đất chuyên làm muối, nằm ven bờ Tây đầm Thị Nại. Đoạn từ thôn Nhơn Ân (phía bắc), Bình Thới, Quảng Vân, An Định, Lương Nông đến thôn Bình Thạnh (phía nam). Thí dụ: chỗ nại, dân nại, ở nại, vùng nại, làng nại… Và người ta thường nói: “Lên nguồn xuống nại,” để chỉ cho việc lên vùng núi cao ở phía Tây Bình Định và xuống vùng ruộng muối các thôn nói trên. Ở Bình Định, ngoài đầm Thị Nại, còn nhiều vùng làm muối khác, nhưng họ không gọi nơi đó là “nại.” Có lẽ muối đầm Thị Nại đặc biệt được triều đình chọn dùng.

              36 – Nậu: Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, bản dịch , trang 191, đề cập đến việc Ký lục Chính dinh Nguyễn Đăng Đệ đi tuần xét các phủ ở xứ Quảng Nam, vào tháng tư năm Bính Ngọ (1726), có định rõ chức lệ cho các thuộc (tổng mới lập). Sách đã dẫn: “Mỗi thuộc đều lấy những thôn, phường, nậu, man lẻ tẻ họp lại (nậu nghĩa là làm cỏ ruộng, tục gọi đám đông người là nậu, ý là hợp nhiều người để làm ruộng).”

              Trên đây, tiếng “nậu” chỉ dùng để gọi những người cùng làm ruộng. Nhưng ở Bình Bịnh, đại danh từ này được dùng rộng rãi: gọi những người cùng giới, cùng nghề nghiệp, cùng chỗ ở, cùng sinh hoạt, hay cùng hoàn cảnh. Vậy “nậu” luôn luôn ở ngôi thứ ba số nhiều và phải đi kèm với một danh từ theo sau nó mới đủ nghĩa. Chẳng hạn như: “nậu nguồn” là tiếng gọi chung những người ở miền thượng du, “nậu hạ bạn” chỉ chung cho dân sống ở vùng cửa sông đổ ra biển, “nậu rổi” (phát âm sai thành “nậu rẩu”) là những người đàn bà chuyên bán cá ở các chợ, “nậu hàng xén” là nhóm người bán hàng tạp hóa ở vỉa hè hay ở chợ, “nậu bạn hát” chỉ chung cho nam nữ diễn viên chuyên nghề hát bội. Ca dao Bình Định thường dùng đến tiếng “nậu:”

              Ai về nhắn với nậu nguồn

              Măng le gởi xuống, cá chuồn gởi lên.

              Hoặc

              Đừng chê nậu rổi tanh hôi,

              Có nhờ nậu rổi mới rồi bữa cơm.

              37 – Nẫu: là hiện tượng biến đổi thanh điệu nhưng vẫn giữ âm trầm, nghĩa là chỉ chuyển từ dấu nặng sang dấu ngã. Tiếng “nậu” chuyển hóa thành “nẫu,” vẫn là đại danh từ, nhưng ý nghĩa của nó rất rộng rãi và không cần một danh từ đi kèm. “Nẫu,” được dùng ở ngôi thứ ba, số ít, cả số nhiều, có nghĩa là họ, người ta, người ấy. Tiếng “nẫu,” còn thấy ở ngôi thứ nhất (tôi) và ngôi thứ hai (mầy, anh, em) nhưng dùng hạn chế.

              * Tiếng “nẫu” ở ngôi thứ ba số ít, trong ca dao Bình Định có nhiều, chẳng hạn như:

              Thương chi cho uổng công trình,

              Nẫu về xứ nẫu, nẫu bỏ mình bơ vơ.

              * Tiếng “nẫu,” được dùng ở ngôi thứ ba số nhiều, trong bài chòi Bình Định, câu thai Ngũ trợt có đoạn:

              Ngó ra ngoài chợ,

              Nẫu bán trạnh cày.

              Roi mây lưỡi cuốc,

              Nẫu bày nghinh ngang

              * Ở ngôi thứ hai số ít, tiếng nẫu được dùng với bạn thân, người yêu, có thể nói: “Nẫu đi đâu giậy (vậy)?” với giọng hạ thấp để biểu lộ sự thân mật, trìu mến. Trong ca dao Bình Định cũng có câu:

              Nẫu về Bình Định chi lâu,

              Bỏ tui ở lại hái dâu một mình.

              * Đôi lúc còn thấy tiếng nẫu ở ngôi thứ nhất, khi bày tỏ giọng điệu nũng nịu, yêu đương. Thí dụ:

              Chồng hỏi: “Nẫu đi ngủ chưa?” (ngôi thứ hai)

              Vợ đáp: “Nẫu hổng đi ngủ!” (ngôi thứ nhứt)

              * Cũng trong ngôi thứ nhất, có khi dùng “nẫu” để đáp lại với thái độ hờn lẩy, nhẹ nhàng: “Nẫu làm gì thây kệ nẫu, hỏi chi hé!”; nếu muốn xẳng hơn một chút, thì đáp gọn: “Kệ nẫu.”

              Nậu và nẫu là thổ ngữ đặc biệt nhất của xứ Bình Định, vì vậy người ở các tỉnh khác gọi đùa người Bình Định là “dân nẫu.”

              38 – Nghe: tiếng đệm sau một câu, đồng nghĩa với trạng từ “nhé,” có hai chức năng:

              * Để tỏ ý thân mật. Thí dụ: Cháu đi mạnh giỏi nghe!

              * Còn có ý nghĩa là ân cần dặn dò, như trong bản Hát bả trạo, văn liệu dẫn chứng ở đoạn, Tổng khoang nhắc nhở bạn chèo qua câu nói lối:

              “Truyền cho bả trạo nghe Tổng tiền (mà) hò cho tử tế chứ chẳng chơi, nghe!”

              39 – Óng: xa quá, vượt quá mục tiêu.

              Thí dụ: Trên xe buýt, một hành khách kéo dây báo hiệu dừng ở trạm tới, nhưng tài xế vì lơ đãng chạy luột qua nơi muốn ngừng. Hành khách càu nhàu: “Chạy óng đâu tuốt quãy!”

              40 – Ờ hé: tức là “vậy à,” tiếng hỏi gằn lại để tô đậm việc vừa nghe qua.

              Thí dụ: Vợ nhắc chồng: “Chiều nay anh nhớ về sớm, đi dự sinh nhật của cháu Vân.” Chồng sực nhớ, bèn đáp: “Ờ hé! suýt nữa anh quên mất.”

              41 – Quá: như.

              Theo nghĩa thông thường: “quá” là vượt qua mức thường (trạng từ), vượt ngang (động từ), lỗi lầm (danh từ), tương đương với chữ “ngóa” (đại danh từ: Quá thì hốt thuốc, lứ bong vụ – Thơ Học Lạc). Nhưng với thổ ngữ Bình Định, tiếng “quá” đồng nghĩa với chữ “như,” dùng trong các câu nói ví. Thí dụ: Trong bài Vè Dư Đành có câu:

              Dư Đành sức mạnh quá trâu,

              Vùng lên quấnh (đánh) ngã cả xâu triều đình.

              42 – Quã: biến thể từ tiếng “ủa,” mang hai chức năng:

              * Lúc đơn thuần tỏ sự ngạc nhiên. Thí dụ: Quã, anh qua Mỹ hồi nào?

              * Khi dùng để biểu lộ sự bực mình, cũng do sự ngạc nhiên đem lại:

              Thí dụ: Quã, sao mầy quấnh (đánh) tao?

              “Quã” và “hữ” là hai thổ ngữ thường dùng nhất trong khi nói chuyện với nhau.

              43 – Quải: tương đương với từ ngữ “cúng giỗ.”

              Trong bài Vè Chú Lía, văn liệu dẫn chứng ở câu 1242, gánh hát bội bầu Lễ bị Lía gọi lên sơn trại trình diễn. Bởi trước đó có nhiều ông bầu bị Lía chém đầu vì hát dở, bầu Lễ thế buộc phải ra đi trong lo sợ:

              Nghĩ thôi lệ nhỏ dầm đàng,

              Đi khắp xóm làng từ giã bà con.

              Vợ con khóc lóc thở than,

              Quải đơm tế sống đã an mọi bề.

              44 – Quãy: ngoài đó, ngoài ấy. Thí dụ: Dìa quãy, tức về ngoài đó.

              45 – Quấnh, quýnh: nói trại từ tiếng “đánh.” Xem thí dụ thổ ngữ “quã,” số 41.

              46 – Quớ: bớ. Tiếng đứng trước dùng để lấy trớn gọi lớn cho người ở xa nghe được. Thí dụ: Quớ mẹ quơi (ơi)! Quớ làng xóm quơi (ơi)!

              47 – Quợ quợ: chiếu lệ, lấy lệ.

              Thí dụ: Anh chẳng làm được trò trống gì, chỉ theo quợ quợ thôi.

              48 – Rội: thêm vào, châm thêm.

              Thí dụ: trong bữa cơm đãi khách, người chủ nhà thấy các thức ăn trong mâm đã cạn, vội gọi người hầu bàn: “Rội đồ ăn (thức ăn) lên bay!”

              49 – Soi: nương, bãi đất cao ven sông, chuyên trồng hoa màu như đậu, bắp, mè, hoặc trồng dâu nuôi tằm. Bài thơ Cho Quê Ngoại của Việt Thao, có dùng thổ ngữ này:

              Hàng sung rũ bến đò ngang,

              Mênh mông lúa trải, ngút ngàn bắp soi.

              50 – Sướng mạ: nghĩa thông dụng là chỗ đất để gieo mạ, ruộng gieo mạ, đám mạ. Ở Bình Định tiếng “suớng mạ” dùng với nghĩa hạn hẹp hơn, tương đương với luống mạ tức là dải đất có gieo mạ. Vì trong một đám mạ, thường chia ra làm nhiều luống dài và hẹp chừng 2 mét, giữa các luống có chừa lối đi nhỏ.

              Thí dụ: Mày làm việc chậm rì, cả ngày mà nhổ không xong một sướng mạ.

              51 – Thàn: hiền khô, tức là bản chất rất hiền lành mà còn biểu lộ sự chân thật rõ trên nét mặt.

              Thí dụ: Ông ấy thàn quá!

              52 – Thắt thể: tương đương với chữ “như thể.”

              Tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo (1869- 1934) lãnh tụ Phong trào Kháng Thuế ở Bình Định, qua bài thơ Trong Tù (dài 46 câu), Ông có dùng thổ ngữ này:

              Bề gia thất con thơ lịu địu,

              Vợ trông chồng thắt thể vọng phụ.

              53 – Thộn: ngây ngô, đần độn (tĩnh từ); nhưng với thổ ngữ Bình Định có nghĩa là ăn một cách ham hố quá mức (động tự).

              Thí dụ: Thấy em đòi ăn quá, chị nói lẩy:

              – Đấy, mầy thộn vô cho hết !

              54 – Thưng thưng: nhanh và êm ả.

              Trong bài Vè Các Lái (hát ra), đoạn tả cảnh vùng biển huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, có dùng thổ ngữ này:

              Vũng Cù sóng vỗ lao xao,

              Nồm thổi ngọt ngào, ghe chạy thưng thưng.

              55 – Vời: biến thể từ tiếng “khơi” là vùng biển ở xa bờ. Vè Các Lái (hát vô):

              Hòn Sụp ta sẽ buông khơi,

              Trọng vịnh, ngoài vời, núi đất mênh mang.

              II – THỔ NGỮ THEO ĐÀ NAM TIẾN

              Tùy theo nguồn gốc, nhóm thổ ngữ này có hai loại:

              A/ Thổ ngữ gốc gác từ các tỉnh Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, đời Hồng Đức (1470- 1497), theo lớp người di dân vào định cư phủ Hoài Nhơn, như tiếng:

              01 – Ghè: tiếng gọi chung ba loại chum, vại, lu, cỡ nhỏ và bằng sành. Cũng trong bài Vè Các Lái (hát vô) có câu:

              Gặp nhau chưa nói đã cười,

              Kìa núi Từ Phú là nơi nhiều ghè.

              02 – Té ra: chuẩn bị nói ra những điều bất ngờ vừa nhận thức được, nên thổ ngữ này thường đứng đầu câu và tương đương với từ ngữ “thì ra, hóa ra.”

              Trong tuồng Cổ Thành của Đào Tấn, văn liệu dẫn chứng ở đoạn Quan Vũ được Tào Tháo thả cho về đất Tây Thục, khi qua ải do Hạ Hầu Đôn trấn giữ, bị chặn lại vì hắn không muốn thả cọp về rừng.

              Hạ Hầu Đôn nói: “Giỏi đánh với Đôn đã!”

              Quan Vũ trả lời: “Té ra ngươi đã muốn đề thương chấp kích. Vậy thì ta cũng nguyền sánh mã giao phong.”

              03 – Vát: xiên, lệch sang một bên. Với Bình Định, “vát” là tiếng lóng của dân chài, chỉ sự việc kéo xiên xiên lá buồm để thích nghi với thuyền chạy ngược gió. Bài Vè Các Lái (hát vô), có đoạn:

              Vát ra khỏi mũi Sa Hoàng

              Kìa kìa ngó thấy Tam Quan nhiều dừa.

              B/ Thổ ngữ phát sinh từ Bình Định, theo đà Nam tiến đến tận Nam Kỳ, cũng được xếp vào nhóm thổ ngữ Bình Định, như tiếng:

              04 – Bậu: đồng nghĩa với đại danh từ (pronouns) “em, nàng, mình,” dùng gọi vợ hay người yêu của ta. Trong hội bài chòi, gặp con bài Tứ cẳng, còn gọi là Tứ ghế hay Tứ móc, chú Hiệu thường hô câu thai có thổ ngữ này:

              Một hai bậu nói rằng không,

              Dấu chân ai đứng bờ sông hai người.

              05 – Chàng ràng: Theo nghĩa thông dụng là quanh quẩn bên cạnh, không rời. Ở Bình Định, tiếng “chàng ràng” còn biểu thị tình trạng ham muốn cả hai, không dứt khoát bên nào. Ca dao Bình Định dùng nhiều đến chữ này theo nghĩa thổ ngữ, có khi đặt ở đầu câu:

              Chàng ràng ếch ở hai hang,

              Như chim hai ổ, như nàng hai nơi.

              có lúc đặt ở cuối câu:

              Chợ chiều nhiều khế ế chanh,

              Nhiều con gái lứa nên anh chàng ràng.

              06 – Chầu rày: lúc này, hồi này, khoảng thời gian này. Bài chòi Bình Định gặp con bài Bát bồng, Hiệu thường hô câu thai:

              Chầu rày đã có trăng non,

              Để tui lên xuống có con em bồng.

              07 – Cỏn, Thẵng: đại danh từ ngôi thứ ba số ít, “cỏn:” con ấy, con vợ mày; “thẵng:” thằng ấy, thằng chồng mày; và dùng cho người trên nói với con cháu một cách thân tình.

              Thổ ngữ này theo đà Nam tiến vào miền Lục tỉnh, nhưng giọng Nam quen phát âm thiếu dấu ngã (~), nên “cỏn, thẳng” cả hai đều mang dấu hỏi và trở thành phương ngữ Nam Bộ.

              Trong khi đó, Bình Định, phát âm đủ sáu dấu (ngang, huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng) nên “thẵng” mang dấu ngã.

              Thí dụ: Người cô hỏi đứa cháu gái: “Thẵng đi đâu rồi?”

              Người cháu trả lời: “Dạ, ảnh (chồng cháu) mới đi ra phố.”

              08 – Đặng: được, đạt tới (động từ).

              Thí dụ : Tuổi đặng (được) sáu mươi rồi.

              Bình Định còn dùng “đặng” với ngữ nghĩa là “để” (trạng từ)

              Thí dụ: Ớ Trung khoang!

              Phó cho Trung khoang gìn giữ nội thuyền

              Đặng (để) canh lấy nước non mà tát.

              (Hát bả trạo)

              09 – Gởi: nói trại âm tiếng “gửi.” Ca dao Bình Định có câu:

              Bơ vơ thì mặc bơ vơ,

              Nẫu về xứ nẫu, nẫu gởi thơ cho mình.

              10 – Hén: là thán từ đặt cuối câu, tương đương với tiếng “phải không, nhỉ”; trình bày dưới hình thức câu hỏi, nhằm tranh thủ sự tán đồng của người nghe:

              Thí dụ: Vui quá hén!

              11 – Hông, Hổng: là trạng từ, biến đổi từ tiếng “không,” trong câu trả lời biểu thị ý phủ định.

              Thí dụ: Chồng hỏi vợ: “Em ăn hông”

              Vợ trả lời: “Hổng ăn”

              12 – Hun: biến đổi từ tiếng “hôn,” là áp môi hoặc mũi vào thân thể một người khác, thường ở mặt và tay, rồi hít vào để tỏ lòng yêu thương, quý mến.

              Thí dụ: Mẹ hun con.

              13 – Mau (còn gọi là mâu): nhanh, lanh. Phương ngữ này đã thành phổ thông trong thơ văn, đơn cử câu thai Nhứt nọc của bài chòi Bình Định:

              Tiếng ai văng vẳng kêu đò,

              Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người.

              14 – Qua: đồng nghĩa với đại danh từ ngôi thứ nhất “tôi, ta, tao.”

              Tiếng “qua” chỉ dùng cho bậc đàn anh xưng với đàn em hoặc với người cấp dưới. Ca dao Bình Định có câu:

              Hầu (hồi) nào làm bạn với qua,

              Bây giờ bỏ bạn đi ra ăn mày.

              “Qua” còn dùng khi chồng xưng với vợ và để đối lại với tiếng “bậu,” chồng gọi vợ. Ca dao địa phương cũng có câu:

              Cỏ mọc bờ giếng cheo leo,

              Lâm chung có bậu, hiểm nghèo có qua.

              15 – Ráng: đồng nghĩa với chữ “cố, gắng sức.”

              Trong văn bản hát bả trạo, lưu hành ở Bình Định, có đoạn Tổng khoang diễn hát với bạn chèo qua câu nói lối đã dùng thổ ngữ này: “Ớ bá trạo ơi! Anh em ráng mà đưa thuyền cho tới nơi giang đáo xứ túc hộ trì.”

              16 – Trển: trên đó, trên ấy.

              Bài vè Chợ Gò Chàm, chú Hiệu dùng thổ ngữ “trển,” hô bài chòi cho câu thai Ngũ trợt:

              Buôn mọi bán rợ,

              Mấy chú An Khê.

              Ở trển đem về,

              Xấp trầu nài rễ.

              B – THỔ ÂM

              Phần lớn thổ ngữ là sự biến thể một số từ ngữ ở một vùng nhỏ hẹp và là tiếng nói lưu hành ở từng địa phương, còn thổ âm là giọng nói đặc trưng của một vùng có cùng tính chất phong thổ.

              Người Bình Định, giọng nói sang sảng, phát âm rõ ràng L với N, S với X, trong lúc có một số miền khác không thể phát âm đúng (xem phần đặc điểm giọng nói); nhưng bởi giọng cứng, nên gặp phải một số trường hợp sau đây:

              I – PHÁT ÂM SAI

              Trên toàn cõi nước ta không có vùng nào phát âm hoàn toàn đúng, mà cũng không có vùng nào phát âm hoàn toàn sai; và các điểm đúng, sai ấy không hoàn toàn giống nhau. Ở Bình Định, do bản chất của giọng nói ít để ý đến cách phát âm, nghĩa là không chịu khó phát âm cho trọn tiếng, nên thường nói sai các vần dưới đây. Tuy nhiên, ngày nay do sự truyền thông và tiếp xúc rộng rãi, người dân ở thành phố và lớp trí thức đã phát âm đúng khá nhiều, còn ở thôn quê cũng có phần sửa đổi.

              1 – Vần ÔI phát âm thành ÂU: Các tiếng như “Cầu Đôi, thôi rồi, con đồi mồi…” phát âm thành “Cầu Đâu, thâu rầu, con đầu mầu…,” nay vẫn còn thông dụng.

              Vì vậy, người Bình Định ở thôn quê hát câu ca dao sau đây, nếu viết theo phát âm sẽ là:

              Cầu Đâu nằm cạnh tháp Đâu,

              Vật vô tri còn biết đèo bòng đâu lứa

              Huống chi tui với nàng.

              Nhưng lại có trường hợp biệt lệ, tiếng “tôi” người ta không phát âm thành “tâu” mà nói trại là “tui.”

              2 – Vần OA, OE phát âm thành A, E và nếu có phụ âm mở đầu là Kh, phát âm thành Ph. Các tiếng như “khoa trương, khoe khoang, khỏe khoắn…” phát âm thành “pha trương, phe phang, phẻ phắn…,” nay đã sửa đổi nhiều.

              3 – Vần OM và ƠM phát âm thành ÔM: Các tiếng như “lom khom, tối om, ăn cơm, sáng sớm…” phát âm thành “lôm khôm, tấu ôm, ăn côm, sáng sốm…”; nay vẫn còn dùng nhưng giới hạn trong gia đình và đồng hương thân tình.

              4 – Vần ƯƠI phát âm thành Ư: Các tiếng như “người ta, đười ươi, cười tươi, cây bưởi…” phát âm thành “ngừ ta, đừ ư, cừ tư, cây bử…”

              Thí dụ: Nếu viết theo phát âm sẽ là:

              Trèo lên cây bử hái hoa,

              Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

              5 – Vần ÊP phát âm thành IP: Một số tiếng như “bếp lửa, rượu nếp, xếp đặt” phát âm thành “bíp lửa, rượu níp, xíp đặt.”

              6 – Tiếng ƠI được thêm QU ở phía trước:

              Những tiếng như “Trời ơi! Làng xóm ơi! Em ơi!…” phát âm thành “Trời quơi! Làng xốm quơi! Em quơi!…” Vẫn còn thông dụng ở miền quê.

              7 – Phụ âm khởi đầu bằng V và D phát âm thành G:

              Hai câu dưới đây, nếu viết theo phát âm của Bình Định sẽ là:

              Thầy giáo giạy giỗ (dạy dỗ) chúng em.

              Cho em đi theo giới (với).

              8 – Các trường hợp khác đã phát âm sai:

              “Ông ngoại” phát âm thành “ông quại.”

              “Ngoài kia” phát âm thành “quài kia.”

              II – PHÁT ÂM BIẾN GIỌNG

              Phát âm sai có tính cách chung cho toàn tỉnh, còn phát âm biến giọng chỉ xảy ra cho một vùng rất nhỏ, hoặc vì ở lân cận với miền có giọng nói khác, hoặc sinh sống nhiều đời ở những làng hẻo lánh sát biển và ít tiếp xúc với người ở miền khác, hoặc lúc còn nhỏ phát âm chưa đúng giọng.

              1 – Vần A phát âm thành EA kéo dài:

              Trẻ em giọng còn non nớt, khi phát âm các tiếng có nguyên âm cuối “a” thay vì há miệng quặt lưỡi, lại mở miệng đánh cong lưỡi nên trở thành “ea” kéo dài. Vì vậy các tiếng như “ông ba, bà má” trẻ con phát âm thành “ông bea, bèa méa.”

              2 – Vần ĂN phát âm gần giống như EN:

              Chẳng hạn nói “ăn cơm” mới nghe như “en côm”; “en” do phát âm biến giọng ở một vùng nhỏ, còn “côm” là do thói quen phát âm sai toàn tỉnh. Muốn điều chỉnh sự biến giọng ở tiếng này, cần phát âm “ăn” bằng giọng cổ, hơi tròn miệng lại một chút và đè lưỡi chứ không đưa lưỡi.

              3 – Vần ẢY phát âm na ná tiếng Ẻ:

              Chẳng hạn nói “chiều thứ bảy” mới nghe như “chiều thứ bẻ.” Hai trường hợp trên chỉ xảy ra ở vùng Bắc Bình Định, từ Bồng Sơn trở ra. Tuy không phát âm biến giọng hẳn, nhưng người xứ khác không phân biệt được, tưởng lầm họ là người Quảng Ngãi.

              4 – Vần ƠI phát âm cộc và ngắn:

              Người ở miền núi giọng cứng hơn người ở đồng bằng và miền biển, nên khi phát âm những tiếng có vần “ơi” như: bơi, chơi, mời… họ có thói quen cứng lưỡi thay vì cong đầu lưỡi lên, vì vậy giọng nghe hơi cộc và ngắn.

              5 – Phát âm chả chớt:

              Trường hợp này phổ biến ở một số vùng dân cư chuyên nghề đánh bắt cá biển. Họ quen phát âm ở đầu lưỡi với giọng líu lo, chả chớt, bởi thanh điệu nghiêng về bổng hơn là trầm, nên những tiếng thuộc dấu huyền, nặng, ngã chuyển âm na ná như tiếng mang dấu ngang, sắc, hỏi.

              Thí dụ: Ở Binh (Bình) Đính (Định) con (còn) có túc (tục) giả (giã) gáo (gạo) hát ho (hò) vao (vào) nhửng (những) đêm trăng sáng.

              Điển hình là vùng Nhơn Lý, ở phía đông bán đảo Triều Sơn, trước là xã Phước Lý của quận Tuy Phước, khoảng năm 1975 thuộc xã ngoại thành Qui Nhơn, có giọng chả chớt và còn giữ nhiều thổ âm miền biển của Bình Định.

              III – PHÁT ÂM LẪN LỘN

              Phát âm lẫn lộn khi hai chữ có phụ âm khởi đầu, hoặc phụ âm cuối khác nhau, hay có khi khác vần, nhưng lại phát âm giống nhau.

              Người Bình Định phát âm lẫn lộn ở các trường hợp sau đây:

              1 – Phát âm không phân biệt hai phụ âm khởi đầu D và GI:

              Thí dụ: Chó dữ // Giữ nhà,

              Dì ghẻ // Cái gì vậy.

              2 – Phát âm không phân biệt hai phụ âm cuối C và T:

              Thí dụ: Mặc kệ // Mặt mày,

              Khuân vác // Đẽo vát

              Nhưng lại phát âm phân biệt được, khi trước phụ âm cuối C và T có nguyên âm O, Ô, U đi kèm.

              Thí dụ: Móc túi // Mót lúa,

              Mộc mạc // Một mai,

              Lúc đầu // Lút đầu.

              3 – Phát âm không phân biệt được, khi đứng trước phụ âm cuối CH và T, có nguyên âm Ê đi kèm:

              Thí dụ: Mũi hếch // Ăn hết

              4 – Phát âm không phân biệt hai phụ âm cuối N và NG, N và NH:

              Thí dụ:1: Đan lát // Đang lúc,

              Vác thang nặng thở than.

              Thí dụ 2: Lên đồng // Lênh đênh

              Hên xui // Hênh hếch.

              Nhưng lại phát âm phân biệt được khi có nguyên âm I đứng trước NNH.

              Thí dụ: Tin tức // Tinh túy

              Xin xỏ // Xinh xắn

              5 – Phát âm không phân biệt vần IU với IÊU; UI với UÔI:

              Thí dụ 1: Đìu hiu // Điều hòa,

              Thí dụ 2: Mắt đui // Cái đuôi

              Nhận xét: Phát âm sai và phát âm lẫn lộn đều mang tính phổ biến toàn tỉnh, nhưng tình trạng phát âm sai ngày nay đã giảm bớt, còn phát âm lẫn lộn vẫn chưa sửa đổi.

              C – LỐI NÓI BÌNH ĐỊNH

              Ở Bình Định cũng phổ biến cách nói ví, nói lóng và nói lái nhưng mang màu sắc riêng, đặc trưng cho địa phương.

              I – NÓI VÍ

              Có những phương ngôn thường lồng vào trong câu chuyện để ví von, cụ thể hóa được vấn đề, hay thêm phần đậm đà cho sự so sánh. Những câu nói ấy, chỉ người địa phương mới hiểu ý ẩn dụ của nó, chứ không thể phân tích đơn giản bằng ngữ nghĩa thông thường các từ đã tạo nên câu nói đó. Điển hình một số câu phổ biến như:

              1 – Ngang quá ông Chảng:

              Chữ “quá” trong câu này là thổ ngữ của Bình Định nên có nghĩa là: ngang như ông Chảng; dùng để ví những ai ngang bướng chưa từng có.

              Sở dĩ có câu này vì ở làng Bằng Châu, nay thuộc xã Đập Đá (huyện An Nhơn), vào thời Tây Sơn có võ sư Đinh Văn Nhưng, tục danh là ông Chảng, tính tốt nhưng ngang ngạnh khác thường, suốt đời chưa hề kiêng nể ai. Ba anh em Tây Sơn lúc nhỏ có đến xin học võ, được thầy Chảng tận tình truyền đạt. Khi xưng vương, Nguyễn Nhạc nhớ ơn thầy cũ mà ba anh em đã lập nên nghiệp lớn. Và nhất là đời ông cố, ông nội của Nguyễn Nhạc được nhà họ Đinh ở Bằng Châu nhận bảo bọc, coi như người thân thuộc. Vua Thái Đức tỏ ý muốn phong tước cho Thầy, ông bèn tâu: “Dù Bệ hạ đã lên ngôi Hoàng Đế, nhưng vẫn là đạo con cháu của nhà họ Đinh, nếu Bệ hạ có lòng nghĩ đến thì xin cho tôi được tự phong.”

              Vua Thái Đức chiều ý thầy, chuẩn y cho. Ông lấy bút mực viết bài thơ dâng lên vua:

              Bùng binh chi tướng,

              Uýnh cướng chi quan,

              Bộn bàn chi chức,

              Chảng chảng ngang thiên.

              (Nước Non Bình Định – Quách Tấn)

              Rồi mỗi lần đến thăm vua Thái Đức ở thành Đồ Bàn, ông Chảng ngồi trên cái thang thay cho kiệu, dùng hai tàu lá đu đủ thật lớn thay cho lọng, lính hầu vác cuốc, xẻng, cào cỏ, đòn xóc thay cho cờ biển gươm giáo [3]. Con đường từ Bằng Châu đến thành Đồ Bàn chừng hơn một cây số và phải băng qua Quốc lộ 1, dân địa phương cả người đi đường đứng xem đông nghẹt vì thấy cái ngang bướng lạ đời của ông Chảng.

              2 – Ông Xã Bình Thái lại nồi canh:

              Muốn nói nồi canh, vì lỡ tay nêm muối quá mặn, người Bình Định có lối nói: “Ông Xã Bình Thái lại nồi canh,” đôi khi dùng tiếng tục “…đái nồi canh.” Nhiều người quen gọi địa danh Bình Thái ra Bình Thới, nên câu trên được sửa lại cho hiệp vần “Ông xã Bình Thới tới nồi canh.” Để giản lược, đôi khi người ta không nói hết câu, chỉ cần bốn chữ đầu “Ông Xã Bình Thới” là đủ hiểu nồi canh, hay bát canh họ đang ăn có vị mặn hơn mức bình thường. Tại sao thế? Bởi Bình Thới là thôn nằm phía bờ Tây đầm Thị Nại, thuộc xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, dân trong làng hầu hết làm ruộng muối. Ông xã trưởng của một làng đời đời chuyên sản xuất muối biển mà lại gần nồi canh thì bảo sao nồi canh không quá mặn được!?

              3 – Hỗn quá nậu rổi:

              Muốn ví ai ăn nói già hàm hỗn xược, người ta thường nói: “Hỗn quá nậu rẩu (rổi).” Thời trước, ít xe cộ và không có nước đá ướp lạnh cá, những người đàn bà chuyên nghề bán cá biển còn tươi, gọi chung là “nậu rổi,” phải cố rút ngắn thời gian chuyên chở kẻo bị cá ươn. Họ vừa gánh, vừa chạy lúp xúp đến các chợ, mỗi ngày di chuyển vài chục cây số là thường. Nếu ai muốn mua cá mà trả giá từng cắc từng xu, làm kéo dài thời gian mua bán, thường bị “nậu rổi” mắng xối xả những câu tục tĩu, chọc quê trước đám đông cho xấu hổ, lần sau không dám trả giá chậm chạp nữa.

              Lại nữa, cũng quanh chuyện nậu rổi, dân chúng vùng này bản chất cần cù ít nói, quanh năm hết việc đồng áng đến vườn tược hay các nghề phụ, không muốn tụ năm tụ ba đem việc vu vơ ra đàm tiếu. Họ rất ghét những ai có thói ngồi lê nói mách, đem chuyện riêng tư của người này nói cho người khác nghe. Với những hạng người đó, đôi khi họ không tiếc lời mắng nhiếc (nhưng hạn chế, chỉ những người bạo miệng mới dùng) bằng những câu nói rất tục cho đáng tội thóc mách: “Miệng nhóp nhép như mép l… nậu rổi.”

              4 – Chuyện Cố Hỷ Cố Lai rồi!

              Muốn ví một việc xảy ra đã quá lâu, quá cũ, người ta thường nói: “Chuyện Cố Hỷ [4] Cố Lai rồi!” Sự tích Cố Lai thì không ai biết được; còn bà Cố Hỷ, theo Quách Tấn (Nước Non Bình Định, trang 42 và 208) là một phu nhân, ở mé Đông Bắc đầm Thị Nại, sống vào thời xa xưa, không còn ai nhớ rõ niên đại. Bà rất giàu, nuôi hàng ngàn con trâu, khi bà qua đời, trâu không người chăn, chạy vào núi Triều Châu, lâu ngày thành trâu hoang, nên núi này trước đây có nhiều trâu rừng. Dân chài lưới tại địa phương tin rằng bà phù hộ cho đầm Thị Nại sóng êm, lắm cá nên họ lập đền thờ dưới chân núi Triều Sơn ở Huỳnh Giản (nay thuộc xã Phước Hòa, Tuy Phước). Hằng năm, đến mùa xuân, mở hội cúng tế bà Cố Hỷ rất long trọng, kết thuyền làm sân khấu nổi trên sông trước đền, thuê gánh hát bội danh tiếng về hát lễ.

              5 – Tướng rái:

              Muốn ám chỉ ai bất tài nhưng nhờ gặp may, được lên địa vị cao sang quyền thế, người Bình Định thường gọi là “Tướng rái.” Câu này có từ đời Gia Long. Nguyên vào năm 1775, quân Tây Sơn tiến chiếm Quảng Nam, Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần cùng Nguyễn Phúc Ánh dùng thuyền chạy vào Gia Định. Lúc đến cửa Cách Thử [5], trời tối như mực, lại gặp phải sóng to gió lớn, không dám tấp vào bờ vì sợ quân Tây Sơn bắt gặp. Đang ra sức chèo chống thì các dây buộc mái chèo đều đứt cả, thuyền trôi giạt vào đầm Thị Nại. Trong khốn cùng, bỗng nghe tiếng khịt khịt trước mũi thuyền, lén rọi đèn nhìn kỹ, một con rái to vừa bơi vừa ngoái đầu lại, tỏ ý muốn dẫn đường.

              Định vương Nguyễn Phúc Thuần ra lệnh bơi thuyền theo rái. Đi được một quãng, rái lên bờ chạy vào làng (có lẽ là rái nuôi của dân làng này), Định vương và đoàn tùy tùng cũng đi theo. Chúa Duệ Tông được viên xã trưởng đón tiếp trọng hậu, dân làng cung cấp dụng cụ, sửa sang thuyền bè và bí mật đưa thuyền Nguyễn vương ra khơi an toàn.

              Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, tức Gia Long, nhớ ơn cứu mạng năm xưa, sai quan về tận địa phương truy tầm. Vua biết được nơi gặp con rái dẫn đường thuộc làng Vinh Quang, còn nơi đón tiếp Nguyễn vương thuộc làng Dương Thiện (nay hai thôn này thuộc xã Phước Sơn huyện Tuy Phước). Gia Long phong cho rái chức “Đại Tướng Quân,” lập đền thờ tại làng Vinh Quang, ban thẻ bài xanh cho cả làng Dương Thiện đời đời miễn sưu thuế, còn nhà nào trực tiếp giúp đỡ thì được thưởng vàng bạc xứng đáng. Chuyện có thật này được truyền tụng qua nhiều đời. Tuy có khác nhau về chi tiết, nhưng chức “Đại Tướng Quân” đã lưu lại trong lối nói Bình Định thành ngữ “Tướng rái” ví von thú vị. Và tại địa phương, danh từ “con rái” được gọi là “Ông Rái,” đã phổ biến một thời.

              6 – Ăn như ha hới:

              Bình định còn có những câu nói không thể giải thích được căn do. Chẳng hạn như câu: “Ăn như ha hới” có nghĩa tương tự như câu: “Ăn như tằm ăn lên.”

              II – NÓI LÓNG

              1 – Chen tiếng đệm vào câu nói:

              Lối nói lóng có chen một số từ ngữ với nghĩa quy ước mà chỉ những người trong nhóm mới hiểu được. Nói lóng ở Bình Định, chen vào sau mỗi chữ của câu nói một tiếng đệm, cấu tạo bởi phụ âm hoặc nguyên âm khởi đầu và dấu giọng của từ ngữ gốc, rồi ráp nối với vần ÂN. Do đó, câu nói lóng sẽ tăng gấp đôi số từ ngữ của câu nói gốc. Thí dụ:

              Sáng nay chúng ta đi dạo phố (câu nói gốc có 7 chữ).

              Sáng sấn nay nân chúng chấn ta tân đi đân phố phấn (câu nói lóng tăng thành 14 chữ).

              Trường hợp ngoại lệ, vì cách ráp vần tiếng Việt, có một số từ không thể tạo thành chữ đệm đúng với nguyên tắc đã qui định. Thí dụ:

              Anh em như thể tay chân

              Anh ân em ân như nhân thể thẩn tay tân chân chân.

              2 – Nói lóng của nghề nghiệp:

              Bình Định còn những câu mang tính nghề nghiệp, như: “Cho che ăn mía” hay câu “Ngồi che,” tức là cán mía, lấy nước ngọt, chế biến thành đường theo lối thủ công. Che là dụng cụ ép mía, gồm hai trục cán bằng gỗ, dựng đứng, ăn khớp nhau bởi hai đầu có xẻ răng cưa và nối với một cần quay. Khi trâu, bò kéo cần quay di chuyển quanh che, theo chiều kim đồng hồ, làm hai trục cán quay ngược chiều và ép dẹp thân cây mía, lấy nước ngọt. “Cho che ăn mía” tức dí đầu cây mía vào khe trục cán. “Ngồi che” là người ngồi bên trục cán để làm công việc “cho che ăn mía.”

              III – NÓI LÁI

              Nói lái là cách chuyển đổi trật tự một tổ hợp có hai hoặc ba âm tiết để thành một tổ hợp khác hẳn với tổ hợp ban đầu. Có thể hoán chuyển phần nguyên âm hay phụ âm đầu, phần vần, phần thanh điệu để tổ hợp mới hoàn toàn khác với ngữ nghĩa ban đầu, nhằm mục đích chơi chữ, bông đùa, châm biếm hoặc trao đổi riêng với nhau.

              1 – Về cấu trúc:

              Nói lái ở Bình Định giống với nói lái ở miền Bắc là không hoán chuyển vị trí dấu giọng, nhưng lại khác nhau nhiều điểm quan trọng. Nói lái Bình Định, vẫn giữ vị trí phụ âm hay nguyên âm khởi đầu và chỉ hoán đổi phần âm vận. Trong khi nói lái ở miền Bắc, hoán chuyển nguyên cả chữ. Như vậy, nói lái của Bình Định phức tạp hơn vì phải sử dụng cách ráp vần tiếng Việt.

              Thí dụ:

              Bình Định : lọ tương thành lượng to

              Bắc : lọ tương thành tượng lo.

              Bình Định : đấu tranh thành đánh trâu

              chứ không hoán chuyển âm đầu: đấu tranh thành trâu đánh.

              – Trường hợp ngoại lệ: phải hoán chuyển cả dấu giọng để có thể đọc được các từ trong tổ hợp mới, theo cách ráp vần tiếng Việt.

              Bình Định : cốt tu thành cu tốt,

              chứ không nói lái 2 lần: cốt tu – tu cốt – tốt cu.

              – Trường hợp biệt lệ: mặc dù cấu trúc hai cách nói lái khác nhau nhưng có một số tổ hợp vẫn cho ra cùng một đáp số.

              Bình Định : con cầy thành cây còn

              Bắc : con cầy thành cây còn.

              2 – Lối chơi chữ trong nói lái:

              a/ Nói lái một câu dài:

              Cứ ghép hai hoặc ba âm tiết vào một tổ hợp để nói lái, nếu tổ hợp ba âm tiết thì nói lái ở âm tiết thứ nhất và thứ ba, giữ y âm tiết thứ hai.

              Thí dụ: Ông cha/ trồng cây mít/ ba năm/ có trái/ được ăn/ trèo lên/ vỗ cái bum/ hái xuống/ đem vô/ xẻ ra/ lấy hột/ chị em/ xúm lại ăn/ cho rồi.

              Nói lái thành: A chông/ trít cây mồng/ băm na/ cái tró/ đặc ương/ trền leo/ vũm cái bô/ huống xái/ đô vem/ xả re/ lột hấy/ chẹm i/ xắn lại um/ chôi rò.

              b/ Nói lái giả âm tiếng nước ngoài:

              Trong cách chơi chữ, Bình Định còn dùng nói lái có âm điệu như đang nói tiếng Pháp.

              Thí dụ: Quăng xơ mít bên sông ăn mót.

              Nói lái thành: Quích xơ măng bông sên ót măng.

              D – NGUỒN GỐC GIỌNG NÓI

              Theo Đại Nam Nhất Thống Chí [6] và chính sử, đất Bình Định xưa thuộc bộ Việt Thường Thị, thời Tần (221 – 206 TTL) lệ vào Tượng Quận; thời Tây Hán, năm Canh Ngọ (111 TTL), niên hiệu Nguyên Đỉnh thứ 6 đời Hán Võ Đế (Han Wu Di) đặt huyện Tượng Lâm (gồm Bình Định và Phú Yên) thuộc quận Nhật Nam. Thời Đông Hán, năm Nhâm Thân (192), niên hiệu Sơ Bình thứ 3 đời Hán Hiến Đế (Han Xian Di), nhân thế lực nhà Hán quá suy yếu, viên Công tào huyện Tượng Lâm là Khu Liên (K’ouei) nổi lên giết huyện lệnh, tự xưng là Lâm Ấp Vương, lập ra nước Champa [7], dựng kinh đô ở Trà Kiệu (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam).

              Đến cuối thế kỷ thứ 10, vua Chăm là Hari Varman II (988 – 998) dời đô vào Đồ Bàn Phật Thệ ở miền Vijaya. Thành này, nay thuộc địa phận hai thôn Nam Tân (trước là Nam An) và Bắc Thuận xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Đất Đồ Bàn giữ vai trò kinh đô vương quốc Champa ngót 5 thế kỷ, lừng lẫy một thời. Năm 1284, tướng nhà Nguyên (Yuan) là Toa Đô (Suo Du) đem 10 vạn thủy quân và 1000 chiến thuyền rời Quảng Châu (Guang Zhou) đổ bộ lên cửa Thị Nại, tiến chiếm kinh đô Đồ Bàn nhưng bị quân Chăm đánh đuổi, tổn thất nặng nề, Toa Đô phải rút lui bằng đường bộ. Dưới thời Chế Bồng Nga, nước Champa hùng mạnh nhất, bành trướng lãnh thổ đến Tân Bình và Thuận Hóa. Năm 1371, đời Trần Nghệ Tông, quân Chăm tiến vào Thăng Long đốt phá cung điện, cướp người và của cải. Năm 1377, vua Trần Duệ Tông ngự giá thân chinh, đại binh đổ bộ vào Thị Nại, nhưng đến kinh đô Đồ Bàn thì bị phục quân, nhà vua tử nạn, quan quân tan vỡ. Hết đời Chế Bồng Nga, khí vận nước Champa suy yếu dần. Năm 1402, Hồ Hán Thương đem đại binh đánh Champa, vua Chăm phải cắt nhượng đất Chiêm Động (Quảng Nam) và Cổ Lũy (Quảng Ngãi); Đồ Bàn trở nên một trung tâm văn hóa trọng yếu duy nhất còn lại của nước Champa.

              Rồi kinh đô Đồ Bàn cũng chỉ tồn tại thêm 68 năm nữa thì đổi chủ. Đó là năm 1470, Hồng Đức (洪 德) nguyên niên đời Lê Thánh Tông (黎 聖 宗), vua Chăm là Trà Toàn đem 10 vạn quân đánh chiếm Hóa Châu. Tháng 11 năm ấy, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu thân chinh, tiến binh cả hai mặt thủy bộ, chiếm thành Đồ Bàn (1471), bắt vua Chăm và hoàng gia. Tuy quân ta tiến binh đến núi Thạch Bi (đèo Cả), khắc bia phân ranh giới, nhưng chỉ lấy lại đất Quảng Nam, Quảng Ngãi; chiếm thêm đất Bình Định (tức miền Bắc Vijaya có kinh đô Đồ Bàn) và trấn giữ đèo Cù Mông. Còn đất Phú Yên (miền Nam Vijaya) lập vùng trái độn, bỏ ngõ cho dân Champa.

              Từ đó, đất Đồ Bàn được chia làm 3 huyện: Bồng Sơn (gồm Hoài Ân, Hoài Nhơn, An Lão ngày nay), Phù Ly (gồm Phù Mỹ, Phù Cát) và Tuy Viễn (An Nhơn, Tuy Phước, Qui Nhơn, Bình Khê, Vĩnh Thạnh, Vân Canh). Vùng này, đặt thành phủ Hoài Nhơn (tức tỉnh Bình Định ngày nay), cùng với hai phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi) và Thăng Hoa (Quảng Nam), nhập thành Thừa tuyên Quảng Nam. Trong ba phủ ấy, Hoài Nhơn màu mỡ hơn cả, với những đồng bằng phì nhiêu, lại có đầm Thị Nại dài rộng, mở ra 2 cửa biển tốt là Cách Thử và Phương Mai, nhiều muối lắm cá.

              Nhà vua xuống chiếu di dân. Một cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử Đại Việt (大 越) cũng là cuộc di cư cuối cùng lấy dân từ các tỉnh ở Bắc Kỳ và miền Bắc Trung Kỳ. Theo Phan Khoang, Xứ Đàng Trong [8], đất Bình Định đã lôi cuốn dân Nghệ An đến định cư; nhưng theo Nước Tôi Dân Tôi [9], phần lớn người ở Hà Đông vào Bình Định lập nghiệp trong đợt di dân đến ba phủ của Thừa tuyên Quảng Nam. Dù có nhiều người Nghệ An hay Hà Đông, thì những di dân vào Bình Định không hẳn thuần một tỉnh nào. Miền đất mới đã lôi cuốn những dân nghèo khắp nơi, từ Thuận Hóa ra Bắc, họ muốn đến một nơi định cư có nhiều hứa hẹn nhất.

              Ngoài những đợt di dân tình nguyện chiếm đa số, được triều đình khuyến khích và nâng đỡ, luật Hồng Đức (Quốc Triều Hình Luật) còn quy định những tội hình như: đặt ra lời phao tin đồn nhảm làm náo động dân chúng (điều 2), mưu giết sứ giả của vua hay quan tại chức đã làm bị thương (điều 8), trộm lần đầu (điều 19)…; tội đấu tụng như: đâm chém gây thương tật đứt gân, mù mắt, đọa thai (điều 2), nô tỳ đánh chủ bị thương què (điều 22), biết kẻ mưu đại nghịch phản loạn mà không tố cáo (điều 36)… đều khép tội lưu viễn châu, đày vào phủ Hoài Nhơn (nay là tỉnh Bình Định) sinh sống.

              Lại nữa, cư dân của phủ Hoài Nhơn còn có người Chăm ở lại khá nhiều. Theo Phan Khoang [10], các lần trước bị mất đất, người Chăm đã bỏ quê hương đi theo vua của họ. Lần này, khi ta chiếm Đồ Bàn, đa số người Chăm vẫn ở lại. Phần thì họ luyến tiếc kinh đô đẹp đẽ nhất, phần thì đất đai còn lại ở các tỉnh phía Nam không màu mỡ bằng miền Vijaya. Vua Lê Thánh Tông phải đề phòng sự nổi loạn của người bản xứ. Theo Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, nhà vua đã ban quyền tiền trảm hậu tấu “nếu người Chiêm ai dám không theo, cho phép giết ngay rồi sẽ tâu” [11], cho các quan trấn giữ miền đất mới, đối phó kịp thời những mầm móng phản nghịch và trái lệnh của triều đình. Cho nên, người Chăm ở lại phủ Hoài Nhơn bị đồng hóa ngay bởi làn sóng người Việt đến định cư. Họ phải nói tiếng Việt với lơ lớ giọng Chăm. Hơn nữa, phủ Hoài Nhơn nằm sát biên giới đất Phú Yên là vùng trái độn. Tuy đã thuộc cương vực của Đại Việt nhưng chưa đặt quan chức và tổ chức hành chánh, vẫn để cho họ tự do phát triển suốt 107 năm (1471 – 1578). Dĩ nhiên, người dân Hoài Nhơn còn có sự tiếp xúc thường xuyên với người Chăm ở bên kia đèo Cù Mông, trong việc giao lưu buôn bán. Ngày nay, vẫn còn những địa danh ở Bình Định mang dấu chỉ Champa như: Cù Mông, Càn Rang, Quán Rường…

              Vì thế, cư dân sống ở phủ Hoài Nhơn không thuần nhất miền nào mà pha trộn giọng Bắc, giọng Trung của dân các tỉnh ở xứ Đàng Ngoài và giọng Chăm, dân bản địa nói tiếng Việt. Những yếu tố trên kết hợp vào nhau, rồi trải qua quá trình biến chuyển dần bởi phong thổ của miền đất mà hình thành giọng nói riêng của dân Bình Định.

              Đ – ĐẶC ĐIỂM GIỌNG NÓI

              Xứ Bình Định là giải đất ven biển, nằm giữa hai miền nước ta (Bắc vĩ tuyến 14) nên có giọng nói dung hòa giữa miền Bắc Nam và dễ dàng nói đúng theo các tỉnh khác.

              Lại nữa, Bình Định trước mặt là biển Đông, sau lưng là dãy Trường Sơn hiểm trở, toàn xứ là những thung lũng và chuỗi bình nguyên chen chúc với núi đồi, nên giọng nói pha trộn cái chả chớt của miền biển và giọng cứng cỏi của miền núi.

              I – ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC NGÔN NGỮ

              Tiếng Việt khác với tiếng Chăm nhiều điểm.

              1 – Về nhóm tiếng:

              Theo Nguyễn Ngọc San, Tìm Hiểu Về Tiếng Việt Lịch Sử [12] và các tài liệu ngữ học khác [13], nguyên thủy tiếng Việt và tiếng Chăm đều thuộc ngữ hệ Nam Á cổ [14]. Nhưng rồi qua quá trình di dân và sự tiếp xúc với nhóm ngôn ngữ khác [15], kết hợp điều kiện địa lý, tiếng Việt và tiếng Chăm đã tách xa nhau với nhiều dị biệt.

              Khoảng 2500 năm trước, người Mã Lai và Nam Đảo di cư vào bờ biển miền Nam Trung Việt, lập thành vương quốc Champa. Họ mang theo ngôn ngữ vùng cực Nam Đông Nam Á, tức ngữ hệ Nam Á cổ tiếp xúc với nhóm tiếng Châu Đại Dương.

              Trong lúc tiếng Việt thuộc nhóm Mon – Khmer, cũng có nguồn gốc từ ngữ hệ Nam Á cổ. Nhưng cách đây khoảng 4000 năm, những bộ tộc này từ vùng Thượng Lào và miền cực Tây Bắc Trung Việt đi dần ra vịnh Bắc Việt, tiếp xúc với dòng ngôn ngữ Tày Cổ. Rồi quá trình tiến hóa ngôn ngữ, từ giai đoạn tiền Việt Mường (thời đại Hùng Vương), vẫn mang cơ tầng Mon – Khmer, nhưng đã có sự mô phỏng cơ chế Tày Thái. Đến giai đoạn Việt Mường có tiếng nói chung, một khi đã đi vào quá trình đơn tiết và thanh điệu hóa. Sau cùng, đại bộ phận dân cư ở vùng đồng bằng Bắc Việt tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán trong thời kỳ Bắc thuộc, đã tách khỏi tiếng Mường thành tiếng Kinh, tức tiếng Việt ngày nay. Như vậy, tiếng Chăm thuộc nhóm Nam Dương, trong lúc tiếng Việt hình thành trong điều kiện riêng cho người Việt.

              2 – Về âm tiết:

              Tiếng Chăm vẫn giữ dạng đa tiết, trong lúc tiếng Việt có xu hướng đơn tiết hóa ngay từ giai đoạn tiền Việt Mường. Vì vậy, tiếng Việt độc âm, mỗi tiếng một âm, trái lại tiếng Chăm đa âm.

              3 – Về thanh điệu:

              Tiếng Việt cũng đã mở đầu việc thanh điệu hóa từ lúc còn chung tiếng nói Việt Mường. Cho nên tiếng Việt hình thành đủ sáu thanh điệu: ngang, sắc, hỏi (thuộc âm bổng) và huyền, nặng, ngã (thuộc âm trầm). Vì vậy, thanh điệu của tiếng ta có lên xuống cao thấp, trong lúc giọng đọc của Chăm không có trầm bổng.

              Xét cho cùng, tuy cùng ngồn gốc ngữ hệ Nam Á cổ, nhưng quá trình phát triển đã khác xa, chỉ còn có một điểm duy nhất giống nhau là câu văn của ta và Chăm đều đặt xuôi. Tuy có nhiều yếu tố dị biệt, nhưng nếu xét riêng về giọng nói thì trường hợp đặc biệt của Bình Định, như đã trình bày ở phần trên (Nguồn gốc giọng nói), có bị ảnh hưởng ít nhiều bởi giọng nói của Champa không?

              Thưa có. Tiếng nói của người Chăm không có trầm bổng thì giọng Bình Định cũng ít chú ý đến sắc âm, nên mặc dù vẫn trầm bổng nhưng biên độ không rõ rệt lắm. Bởi thế, giọng Bình Định trở nên buồn tẻ, lại có phần cứng và nặng. Nhược điểm này, có thể sửa đổi dễ dàng, một khi sắc âm được tôn trọng. Nghĩa là, tiếng nói thấp ra thấp, cao ra cao một cách rõ ràng, khoan thai; đồng thời tránh phát âm sai và biến giọng. Được vậy, giọng Bình Định vừa giữ được nét đặc trưng, vừa trở nên trong sáng chuẩn xác.

              II – ĐẶC ĐIỂM VỀ NGỮ HỌC

              1 – Về ưu điểm:

              Người Bình Định chỉ phát âm sai, nhưng viết vẫn đúng chính tả. Và chỉ phát âm sai khi nói chuyện bình thường với người quen thân cùng xứ (vì lười phát âm). Khi có dịp giao tiếp, phát biểu, thuyết trình trước đám đông và đọc sách lại phát âm đúng. Người Bình Định cũng không dùng thổ ngữ khi viết văn, ngoại trừ trường hợp cố ý.

              Giọng nói lại phân biệt rõ ràng giữa hai phụ âm khởi đầu L với N (làm nhà, nhân loại), S với X (sâu xa, xác suất) nên cũng dễ phát âm đúng với tiếng Anh (short, X- ray) và Pháp (soc, xylène).

              2 – Về khuyết điểm:

              Giọng Bình Định phát âm không phân biệt trong một số trường hợp, nên khi viết thường phạm lỗi chính tả ở những chữ cùng thanh vận nhưng có phụ âm khởi đầu bằng D và GI (dữ // giữ); hoặc chữ giống nhau ở phần tiếp đầu ngữ nhưng có các phụ âm cuối C và T (mặc // mặt), N và NG (than // thang), N và NH (lên // lênh); hay lẫn lộn giữa vần IU với IÊU (thiu // thiêu), UI với UÔI (cúi // cuối). Để tránh khuyết điểm cố hữu này, chỉ còn cách căn cứ vào nghĩa ngữ để phân biệt.

              Thí dụ: “mặc áo quần” khác với “mặt bằng,”

              “than khóc” khác với “thang máy.”

              E – TẦM ẢNH HƯỞNG

              Hoàn cảnh lịch sử nước ta đã chia cuộc Nam tiến làm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn đầu ở cấp toàn quốc, lấy dân các tỉnh Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ vào định cư. Giai đoạn sau ở cấp vùng, thuộc xứ Đàng Trong, chỉ lấy dân hai trấn Thuận Hóa, Quảng Nam và đông đảo nhất là dân phủ Hoài Nhơn tràn qua đèo Cù Mông vào lập nghiệp. Tuy nhiên cũng có một lần biệt lệ tháp cư, theo Phan Khoang, Xứ Đàng Trong [16], năm Mậu Tý (1648) đời chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan, quân Nguyễn bắt được tại Quảng Bình 3 vạn tù binh ở xứ Đàng Ngoài, đem phân tán rải mỏng từ Quảng Nam đến Phú Yên, bắt buộc khai hoang cư trú, cứ 50 người lập thành một ấp.

              Vâng, họ là dân tứ xứ đến định cư ở vùng đất mới, dù tình nguyện hay bị bắt buộc cư trú, nhưng cùng một hoàn cảnh tha phương, họ trở nên gắn bó với nhau. Thoạt đầu, họ phát âm với nhiều giọng khác nhau, dần dần được điều chỉnh tự nhiên bởi phong thổ của vùng đất mới, từ đời này sang đời khác, để trở thành giọng chung. Tuy vậy, vài phương ngữ của cố hương (Bắc và Bắc Trung Kỳ) vẫn tồn tại để trở thành thổ ngữ của vùng đất mới, xứ Bình Định.

              Trở lại vấn đề Nam tiến, lần lấy dân vào định cư phủ Hoài Nhơn (nay là tỉnh Bình Định) dưới thời Lê Thánh Tông là lần di dân cuối cùng của giai đoạn đầu. Sau đó, đất nước xảy ra nhiều biến cố quan trọng. Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, gây nên cuộc nội chiến giữa Nam Bắc Triều (1533 – 1592). Nhà Lê chưa dẹp xong nhà Mạc thì đã manh nha một thời kỳ nội chiến khác giữa hai thế lực Trịnh Nguyễn kể từ năm 1558 Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa.

              Các thế lực mãi lo tranh giành địa vị, gây nên nội chiến tương tàn, tài nguyên và nhân lực của đất nước kiệt quệ. Nhất là thời kỳ Nam Bắc Triều, phó mặc cho người dân định cư ở miền Hoài Nhơn, xa xôi hẻo lánh nhất, phải đương đầu bao nỗi khó khăn, thiếu thốn của miền đất lạ. Ở đây, mọi việc phải đơn giản hóa để còn có thì giờ lo chuyện sống còn. Việc cưới gả thì “trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy” cho giản tiện, đã thể hiện qua câu ca dao:

              Em về Đập Đá quê cha,

              Gò Găng quê mẹ, Phú Đa quê chàng.

              Ba địa danh trên quanh quẩn không vượt ngoài phạm vi của huyện An Nhơn ngày nay. Thế hệ 1, cha ở Đập Đá ra Gò Găng, không đầy 5 cây số về phía Bắc, để cưới vợ. Thế hệ 2, con gái lớn lên gả chồng ở Phú Đa, cách Đập Đá khoảng 5 cây số về hướng Đông Nam.

              Từ khi Nguyễn Hoàng (chúa Tiên) được Trịnh Kiểm cho vào trấn đất Thuận Hóa (1558) và nhất là từ năm 1570, Nguyễn Hoàng được Trịnh Tùng cho kiêm nhiệm luôn chức Trấn thủ Quảng Nam; chúa Nguyễn đã nghĩ đến vấn đề mở mang bờ cõi ở phương Nam, chú trọng việc tự túc tự cường, nhanh chóng trở thành một nước độc lập với miền Bắc, đủ sức chống lại họ Trịnh sau này.

              Theo sử, công việc đầu tiên, Nguyễn Hoàng sai ông Lương Văn Chánh lo việc chiêu mộ lưu dân đến khẩn hoang lập ấp ở vùng trái độn suốt 33 năm (1578 – 1611), đã thành nền nếp. Đến năm 1611, nhân người Chăm xâm lấn biên cảnh, Nguyễn Hoàng sai quan Chủ sự là Văn Phong (thiếu họ) dẹp yên, lấy đất đến núi Thạch Bi, lập ra phủ Phú Yên, lệ vào Thừa tuyên Quảng Nam, chia làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa. Năm 1653, vua nước Chăm là Bà Thấm đem quân quấy phá Phú Yên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) sai cai cơ Hoàng Lộc hầu đánh bại. Bà Thấm dâng thư xin hàng, chúa lấy đất từ đèo Cả đến sông Phan Rang, đặt hai phủ Thái Khang (năm 1690 đổi là Bình Khang) và Diên Ninh (1742 đổi là Diên Khánh), lập dinh Thái Khang giao cho Hùng Lộc trấn thủ. Năm 1692, vua Chăm là Bà Tranh bỏ lệ tiến cống, Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) sai tổng binh Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật) đem binh đánh bắt được Bà Tranh (1693). Chúa Nguyễn đổi phần đất Champa cuối cùng này thành trấn Thuận Thành, năm 1697 đặt làm phủ Bình Thuận, gồm hai huyện An Phước và Hòa Đa.

              Từ năm 1578 khởi đầu cho chính sách mở mang bờ cõi của chúa Nguyễn, đất Hoài Nhơn là tuyến đầu của cuộc Nam tiến. Những cuộc hôn nhân không chỉ quanh quẩn ở địa phương mà đã nới rộng theo đà tiến quân vào Nam:

              Anh về Bình Định thăm cha,

              Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em.

              Giai đoạn 2, thế hệ 1 người trai phủ Hoài Nhơn vào Phú Yên mở đất, lấy vợ và lập nghiệp luôn ở đấy. Thế hệ 2, con trai lớn lên lại vào tới vùng cực Nam thời bấy giờ (1653) là Diên Khánh mở đất rồi lấy vợ lập nghiệp luôn ở đấy, và cứ như thế đi dần về phương Nam sau mỗi đợt tiến quân. Cho nên người Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa…thường có liên hệ huyết thống. Ngày nay, trong gia phả của nhiều dòng họ ở Phú Yên, có ông thủy tổ là người Bình Định vào đây lập nghiệp, chẳng hạn như Gia Phả Mạnh Tộc ở huyện Đồng Xuân [17].

              Vì thế, các tỉnh phía Nam của Bình Định có ảnh hưởng ít nhiều giọng nói Bình Định theo đà Nam tiến. Nhưng càng vào Nam, giọng càng nhẹ và dịu dần về thanh điệu, tức là cách phát âm dấu giọng. Các tỉnh Nam Kỳ cũng thường dùng một số thổ ngữ của Bình Định (xem Phần 1: Thổ ngữ). Riêng Phú Yên, giọng nói giống như Bình Định, nếu phân tích kỹ mới thấy được giọng Phú Yên nhẹ hơn và chả chớt hơn. Ngoài một vài trường hợp phát âm riêng của Phú Yên, như vần “ông” phát âm thành “ong,” gọi “chồng” ra “chòng”; ở La Hai phát âm chữ “ngoài” thành “vài”; còn hầu hết thổ ngữ của Bình Định, người Phú Yên vẫn dùng. Tiếng “nẫu” cũng rất phổ biến và quen thuộc ở Phú Yên, cũng thể hiện đầy đủ các chức năng của thổ ngữ đặc biệt này, không những qua lời nói thường ngày mà còn nhan nhản trong ca dao tình tứ:

              Chiều chiều mây phủ Đá Bia,

              Đá Bia mây phủ chị kia mất chồng.

              Mất chồng như nậu mất trâu,

              Chạy lên chạy xuống cái đầu chôm bôm.

              Hoặc:

              Một ngày cũng nghĩa bướm hoa,

              Dẫu tình, dẫu nghĩa, dẫu xa cũng tình.

              Bẻ bông mà cắm độc bình,

              Nẫu xa mặc nẫu, đôi lứa mình đừng xa.

              Tóm lại, đất Bình Định nằm giữa và tương đối cách đều hai đầu của nước ta. Giai đoạn Lê Thánh Tông, Bình Định đón nhận dân các tỉnh từ Miền Bắc và Bắc Trung Việt. Rồi trong giai đoạn Chúa Nguyễn, Bình Định là tuyến đầu của cuộc Nam Tiến; vì vậy Bình Định mang vai trò gạch nối giữa giọng Bắc, Trung, Nam.

              San Jose, ngày 28- 08- 1996

              Bổ chính lần 4: 05- 11- 2010

              ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG

              GHI CHÚ

              [1] Hoàng Phê (chủ biên); Từ Điển Tiếng Việt (Hà Nội, Trung Tâm Từ Điển Ngôn Ngữ, 1992); trang 808, chép:

              – Chữ Rán (không g): “Rán: Động từ (cũ, ít dùng). Ráng. Rán sức.”

              – Chữ Ráng (có g): “Ráng: Động từ (phương ngữ). Cố. Ráng học cho giỏi. Ráng sức chịu đựng.”

              Để giữ đúng tinh thần nguyên bản cổ, chữ “Rán” (Nới lèo rán lái mau mau) ở đây vẫn chép không có “g.”

              [2] Về ngữ nghĩa “nại” các từ điển đã chép:

              – Huình (Huỳnh) Tịnh Paulus Của; Đại Nam Quấc (Quốc) Âm Tự Vị, Quyển II (Sài Gòn, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1896); trang 63, chép “Nại: muối. Chỗ làm muối.”

              – Hoàng Phê (chủ biên), Từ Điển Tiếng Việt, trang 651, chép “Nại: ruộng muối.”

              [3] Quách Tấn; Nước Non Bình Định (Sài Gòn, nxb Nam Cường, 1967); trang 354.

              [4] Dân chúng ở vùng Hưng Lương, Xương Lý (nay là xã Nhơn Lý, thuộc ngoại thành Qui Nhơn) gọi là “Cố Lỷ,” có lẽ do giọng chả chớt của người miền biển nên biến âm.

              [5] Cửa Cách Thử bị lấp kín, bởi cát bồi, từ thời Minh Mạng. Nơi đây, nay thuộc thôn Phú Hậu, xã Cát Chánh, huyện Phù Cát. tỉnh Bình Định.

              [6] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn; Đại Nam Nhất Thống Chí, bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Tập 3 (Huế, nxb Thuận Hóa, 1992); trang 6.

              [7] Tên gọi hiện nay là Champa hay Chăm; còn có tên khác như: Chăm Pa, Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Lâm Ấp, Hời (ít dùng). Người Việt quen gọi là Chàm (như: tháp Chàm, gò Chàm), hay Chiêm Thành (như: dân tộc Chiêm Thành, Chiêm quốc); người Champa gọi dân tộc họ là Chăm.

              [8] Phan Khoang; Việt Sử: Xứ Đàng Trong,1558 – 1777 (Sài Gòn, Khai Trí xb, 1970); trang 109.

              [9] Vũ Mỹ Châu và 4 tgk.; Nước Tôi Dân Tôi, tái bản lần thứ nhất (San Jose CA, Cơ sở Đông Tiến xb, 1992); trang 426.

              [10] Phan Khoang, sách đã dẫn, trang 126.

              [11] Phan Huy Chú; Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Ngô Hữu Tạo và Trần Huy Hân dịch, Tập 1 (Hà Nội, nxb Khoa Học Xã Hội, 1992); trang 165.

              [12] Nguyễn Ngọc San; Tìm Hiểu Về Tiếng Việt Lịch Sử (Hà Nội, nxb Giáo Dục, 1993); trang 8 – 26.

              [13] Nguyễn Đổng Chi; Việt Nam Cổ Văn Học Sử (Hà Nội, nxb Hàn Thuyên, 1942); trang 40 – 46. Và Lê Văn Siêu; Nguồn Gốc Văn Học (Sài Gòn, nxb Thế Giới, 1956); trang 21 – 28.

              [14] Nguyễn Ngọc San, trong tác phẩm đã kể trên, trang 10: “Khoảng trước đây 6000 năm cả một vùng rộng lớn từ Đông Bắc Ấn Độ, Nam Trung Quốc xuống tới vùng áp châu Đại Dương còn nói chung một thứ ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ Nam Á hay Nam Phương, sau đó mới tách dần ra thành các nhóm ngôn ngữ nhỏ.”

              [15] Nguyễn Ngọc San, sách đẫ dẫn, trang 11:

              “Vào khoảng trước đây 4000 năm, tiếng Nam Á chung, lại do sự tiếp xúc với ngữ hệ Hán Tạng phía cực Bắc và ngữ hệ Châu Đại Dương (tiếng Pa-pua) phía cực Nam mà tách thành ba nhóm chính:

              “- Dòng Đồng – Thái phân bố ở vùng cực Bắc Đông Nam Á tiền sử (phần phía nam sông Trường Giang {ở Trung Hoa}, kéo dài từ Tây sang Đông, thường gọi là Đại Thái)…

              “- Dòng Mã Lai – Nam Đảo ở phần cực nam Đông Nam Á tiền sử do tiếp xúc với các ngôn ngữ ở châu Đại Dương (đặc biệt là tiếng Pa-pua)…

              “- Dòng Mon – Kheme phân bố ở vùng cao nguyên trung phần Đông Nam Á tiền sử bao gồm vùng cao nguyên Cồ-rạt (Thái Lan), vùng cao nguyên Bô-lô-ven (Lào) và vùng cao nguyên khu IV cũ (Việt Nam).”

              [16] Phan Khoang, sách đã dẫn, trang 387.

              [17] Gia Phả Mạnh Tộc do ông Mạnh Thế Phổ lập ngày 23- 11- 1979, tại Qui Nhơn, bản chép tay, trang 1: “Tiểu dẫn về nguồn gốc họ Mạnh.

              TÀI LIỆU THAM KHẢO

              – HOÀNG PHÊ (chủ biên); Từ Điển Tiếng Việt; Hà Nội, Trung Tâm Từ Điển Ngôn Ngữ, 1992.

              – HUÌNH (HUỲNH) TỊNH PAULUS CỦA; Đại Nam Quốc Âm Tự Vị; Sài Gòn, Imprimerie Rey, Curiol & Cie, 1896.

              – LUẬT HỒNG ĐỨC; Quốc Triều Hình Luật, bản dịch của Nguyễn Ngọc Nhuận và Nguyễn Tá Nhí; Sài Gòn, nxb TP/HCM, 2003.

              – NGUYỄN ĐỔNG CHI; Việt Nam Cổ Văn Học Sử; Hà Nội, nxb Hàn Thuyên, 1942.

              – NGUYỄN NGỌC SAN; Tìm Hiểu Về Tiếng Việt Lịch Sử; Hà Nội, nxb Giáo Dục, 1993.

              – NGUYỄN VĂN ÁI chủ biên và 2 tgk.; Từ Điển Phương Ngữ Nam Bộ; Sài Gòn, nxb TP/HCM, 1994.

              – PHAN HUY CHÚ; Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, 49 quyển; Viện Sử Học Việt Nam dịch, ấn hành thành 3 tập; Hà Nội, nxb Khoa Học Xã Hội, 1992.

              – PHAN KHOANG; Việt Sử: Xứ Đàng Trong, 1558 – 1777; Sài Gòn, Khai Trí xb., 1970.

              – QUÁCH TẤN; Nước Non Bình Định; Sài Gòn, nxb Nam Cường, 1967.

              – QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN; Đại Nam Nhất Thống Chí, 31 quyển; Phạm Trọng Điềm dịch, ấn hành thành 5 tập; Huế, nxb Thuận Hóa, 1992.

              – QUỐC SỬ QUÁN TRIỀU NGUYỄN; Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Nguyễn Ngọc Tĩnh dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, tập 1; Hà Nội, nxb Sử Học, 1962.

              – THẠCH PHƯƠNG và NGÔ QUANG HIỂN; Ca Dao Nam Trung Bộ; Sài Gòn, nxb Khoa Học Xã Hội, 1994.

              – VŨ MỸ CHÂU và 4 tgk.; Nước Tôi Dân Tôi, tái bản lần thứ nhất; San Jose CA, Cơ sở Đông Tiến xb., 1992.

              Comment


              • Font Size
                #8

                Comment


                • Font Size
                  #9
                  Chỉ có dẹp bỏ cái chủ nghĩa bất nhân, vô đạo và bọn "đầy tớ nhân dân" với bàn tay nhuốm đầy máu của dân Việt vô tội, may ra mới phục hồi lại được tiếng Việt trong sáng mà chúng ta, những thế hệ già nua còn sống sót qua chiến tranh, qua tù đày khốn khổ đã dày công vung đúc, làm giàu. Tiếc thay hiện nay vẩn còn nhiều người không chịu "sửa sai" và vẩn viết, vẩn nói loại tiếng Việt đã bị bóp méo, sửa đổi một cách ngu muội, thậm chí còn "chế biến", "ghép nối" chữ nghĩa rất tào lao, nực cười đến khó tin!!! Biết sai mà không chịu sửa, liệu có phải đây là phong cách đạo lý mà ông cha mình đã truyền dạy lại cho đời con cháu nên giữ lấy làm gốc hay không????

                  Comment


                  • Font Size
                    #10
                    VN có chừng đây tự điển tiếng Việt ... liệu dồn hết vô thành một có là một tự điển tiếng Việt hoàn hảo không mình có 1994, 2003, 2018 Hoàng Phê vì không tìm thấy nào khác ... giờ thì hiểu tự điển tiếng Việt Hoàng Phê là ... tiếng Việt Hoàng Phê ... còn bao nhiêu thứ tiếng Việt mình phải học đây Click image for larger version  Name:	TuDienTiengViet.JPG Views:	1 Size:	114.7 KB ID:	82401

                    Comment


                    • Font Size
                      #11
                      Tự Điển tiếng Huế Bùi Minh Đức có khoảng 5 trăm trang dầy hơn tự điển Hoàng Phê ...



                      Thổ ngữ của Tiếng Huế

                      Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản “tê mô răng rứa” như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu.




                      Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng:
                      "Tau noái với mi ri nì, en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phới ló ngoài cươi, en kêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba... en đẩn. Mi quai chướng khôn?"

                      Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy: "Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh... Mày coi có kỳ không?".

                      Chữ “đẩn,” ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như “ăn:” "Đẩn cho bưa rồi đi nghể." (Ăn cho no rồi đi ngắm gái). “Đẩn” cũng có nghĩa là “đánh đòn:”

                      "Đẩn cho hắn một chặp!" (Đục cho hắn một hồi!) Chữ “đẩn” còn được phong dao Huế ghi lại:
                      “Được mùa thì chê cơm hẩm
                      Mất mùa thì đẩn cơm thiu.”

                      Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có... thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà... đả thông cho được: "Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui" - (Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá. Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui). Khó hiểu chưa?!

                      Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài. Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
                      - "Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!" (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai).

                      Độc chưa? O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp… tha hương may ra mới có được tấm chồng. Chữ rượn gần đồng nghĩa với câu “con ngựa Thượng Tứ,” câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế. Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó đĩ lắm, nhưng thâm thuý hơn nhiều.

                      - "Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại!" (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại).
                      Chữ “lưa” cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:
                      “Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
                      Con đò đã khác năm xưa tê rồi.”

                      Này lại (mua lại): tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.
                      - “Đập chắc lỗ đầu, vại máu!” (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)

                      - “Thương bọ mạ để mô? Để côi trốt!” Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa:
                      "Thương bố mẹ để đâu? Để trên đầu!" Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán.
                      - “Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!” (Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng). “Ở lỗ” cũng xuất hiện trong câu phương ngôn "ăn lông ở lỗ" hoặc "con gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!"

                      - “Lên côi độn mà coi” (Lên trên đồi mà xem…) Chữ coi về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác .

                      - “Mự đừng có làm đày!” (Mợ đừng có lắm lời, thày lay). Riêng chữ “cụ mự” thường là dùng cho “cậu mợ.” Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ “ôn” hay ông. Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày "an trí " ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan:
                      “Chiều chiều ông Ngự ra câu
                      Cái ve cái chén cái bầu sau lưng.”

                      - “Chộ chưa? Nỏ chộ!” (Thấy chưa? Không thấy!) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào!

                      “Hắn mô rồi? Nỏ biết!” Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu! Tục ngữ Huế: “Có vỏ mà nỏ có ruột.”

                      - “Khóc lảy đảy, không biết ốt dột!” (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!

                      - “En dòm tui, tui dị òm!” (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá!) Chữ “òm” người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: “Ngon không? Dở òm!”

                      - “O nớ răng mà không biết hổ ngươi!” (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ!) Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ. Cũng như “xấu hổ, thẹn, mắc cỡ” thì “ốt dột, dị và hổ ngươi” có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.

                      - “Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn!” (Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới).

                      - “Mời ôn mệ thời cơm” (Mời ông bà dùng cơm).

                      - “Mệ tra rồi mệ chướng” (Bà ấy già nên sinh tật). Chữ “chướng,” người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua.

                      - “Ăn bụ cua cho hết đái mế” (Ăn vú cua cho hết đái dầm). Chữ “bụ” cũng dành cho người và các loài có vú khác. “Bụ mạ” là vú mẹ, “bọp bụ” là bóp "v..."

                      - “Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn!” (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn!). “Dễ sợ”, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa “thấy mà ghê!” hoặc “khủng khiếp quá!”, mà còn có nghĩa, thí dụ:
                      “Con nớ đẹp dễ sợ!” (Con bé đó đẹp quá trời!).

                      - “Răng mà cú tráu rứa tê?” (Sao mà cộc cằn quá vậy?) Chữ “cú tráu” nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa.

                      Huế nói trại
                      Nói trại là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp "nói khác đi, nói cách khác." Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển. Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn.

                      - “Con tâu tắng ăn ngoài bụi te” tức là “con trâu trắng ăn ngoài bụi tre”.

                      “Tời tong tẻo, nước tong veo” (Trời trong trẻo, nước trong veo).

                      - Hầu hết những từ bắt đầu bằng "nh" đều được người Huế nói trại thành "gi" - già (nhà): “Giớ già giớ vợ ở già” (Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!)
                      - Những từ bắt đầu bằng "s" thì nói trại ra thành "th": “Ăn thung mặc thướng” (Ăn sung mặc sướng), hoặc “Thầy gòn” là Sài gòn, hoặc nữa: “Noái năng thòng phẳng” (Nói cho sòng phẳng, rõ ràng).

                      - Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là "n" hay "ng:" “Con thằng lằng chép miệng thở thang!” (Con thằn lằn chép miệng thở than!)

                      - Những chữ có âm "o" thường nói trại ra "oa:" “Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ” (Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy!) Hoặc nữa: “Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai” (Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi).

                      - Những chữ có âm "ô", người Huế thường nói trại thành âm "u:" “Thúi trong thúi ra” (Thối từ trong ra ngoài). “Túi lửa tắt đèn” (Tối lửa tắt đèn).

                      - “Nậy rồi mà mũi rãi thò lò!” (Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng!) Chữ “thò lò” cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
                      “Học trò thò lò mũi xanh
                      Cầm cái bánh đúc chạy quanh nhà thầy!”

                      “Vô rú mà đốn săng” (Vào rừng mà đẵn gỗ). “Săng” cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp rất "văn hóa" của Huế:
                      Bên nữ:
                      “Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
                      Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
                      Trai nam nhân chàng mà đối đặng
                      Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời.”

                      Nghĩa là: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành (Thành) than (Thang). Cái kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Văn, Võ Thành, Thang là những vị vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu.
                      Bên Nam:
                      “Trâu ăn giữa vạc ló lỗ
                      Đã ngụy chưa tề!
                      Nam nhân chàng đã đối đặng
                      Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa?”

                      Nghĩa là: Con trâu (Trâu) ăn giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy, Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn. Còn hai người có "tào khang" với nhau được hay không là chuyện… của họ
                      - “En trên rầm thượng bổ xuống, nằm đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương!” (Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương!) Đến đây thì kẻ hèn này hơi kẹt. “Rầm thượng” là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà? Ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên. Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; thân phụ tôi đã dùng rầm thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm. Còn nếu qúy nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà! Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo.

                      - “Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời!” (Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời!) Chữ “chặm” cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải… bỏ chày luôn:
                      “Hai hàng nước mắt như mưa
                      Cái khăn lau không ráo
                      Cái áo chặm không khô
                      Công anh đổ xuống ao hồ
                      Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ!”

                      “Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu!” (Mặt mày một… đống, ai chịu cho nổi!) Chữ “thấu” cũng có nghĩa là tới: “Kêu trời không thấu” (Kêu không tới trời “Vô thấu trong Thầy gòn” (Vô tuốt trong Sài gòn).

                      - “Mả cha cái thằng vô hậu (Tiên sư cái thằng đoảng). "Mả cha mi" là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với "mồ cha mày." Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác.

                      - “Ăn trầu cơi thiếc” (Ăn trầu (để) trong hộp, quả bằng thiếc). Cái “cơi thiếc” cũng đã đi vào tục ngữ Huế: “Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc.”

                      - “Đi xe hay đi chưn xuống rứa?” (Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy?)

                      - “Túi thùi thui, có chộ chi mô!” (Tối quá, không thấy gì hết!)

                      - “Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió!” (Cạn túi rồi mà còn làm bảnh, làm sang!)

                      - “Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè” (Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh)). Tục ngữ Huế:
                      “Ăn lưng đoại, làm đoại lưng” (Ăn lưng bát cơm, làm muốn gãy lưng!)

                      Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non, rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế.

                      - “Bữa ni đi kéo ghế” (Hôm nay đi ăn nhà hàng). Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa. Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào bàn. Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế...

                      Huế làm đày làm láo, Huế nói chữ
                      Vâng, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa… “làm đày làm láo,” tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài. Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì "tụng" mới phê! Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.

                      - Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm. Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ:
                      “Cái con nớ, lanh cha lanh chanh!”

                      Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm, tức mấy bà chị chồng mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: “Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè!” (Sao mà nó vô phép quá vậy!”

                      - Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt).
                      Bởi, “cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn!” (Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể!) Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: “Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai!”

                      Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả “mô-ran” cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng dao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình:
                      “Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa.

                      Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình. Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan!”

                      Cái thông điệp cho thằng em trai thì:
                      “Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép . Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được?!”

                      Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình:
                      “Đó, mi thấy đó. Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn. Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ!”

                      Lời kết
                      Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ. Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ giớ, cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều.Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó. Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ.

                      http://khamphahue.com.vn/kham-pha/li...1-28DC3634B2B8

                      Comment


                      • Font Size
                        #12

                        Phương ngữ Kỳ Anh (từ điển tiếng Nghệ - Tĩnh)

                        Thỉnh thoảng mình hay viết những câu chuyện của địa phương và dùng phương ngữ cho hợp với ngữ cảnh câu chuyện. các bạn mình đọc cũng "nỏ hiểu chi trơn"...




                        Con trâu thì gọi “con tru”
                        Con dâu thì gọi “con du” trong nhà
                        “Mấn” là “váy”, “ngái” là “xa”
                        “Đi mô?” để hỏi ai là “đi đâu? ”
                        “Nác su” ý nói “nước sâu”
                        “Trấy bù” để gọi “quả bầu” đấy nha
                        “Gác bếp” thì gọi là “tra”
                        “Lông cơn” thực chất đó là “trồng cây”
                        “Ra sân” thì nói “ra cươi”
                        “Đi nhởi” ý nói “đi chơi” ấy mà
                        “Chúng tao” thì nói là “choa”
                        “Các bạn”, thân mật gọi là “bọn bay”
                        “Tê” là “kia”, “ni” là “này”
                        “Mi” “mần” ý nói là “mày” “làm” thôi
                        “Chộ” là “thấy”, “nhác” là “lười”
                        “Mắm tôm” cứ gọi “ruốc bôi” đúng liền
                        “Đọi” là “bát”, ”nôốc” là “thuyền”
                        “Khủy chân” đích thị có tên “lặc lè”
                        “Đàng” là “đường”, “đấy” là “tè”
                        “Thế thôi” thì nói “rứa hè” là xong
                        “Rừng” là “rú”,“rào” là “sông”
                        “Ngá khu” tức thị “ngứa mông” thật rồi
                        “Mơ” là “mớ”, “thúi” là “hôi”
                        “Nỏ nhởi” ý nói “không chơi” đó mà
                        “Tê” là “kia, “tề” là “kìa”
                        “Cái môi” tên gọi “cái thìa” đó em
                        “Đánh nhau” – “đập chắc” nhớ liền
                        “Ra răng” là muốn hỏi em “thế nào”
                        “Ả” là “chị”, “tau” là “tao”
                        “Rứa” là “thế”, “răng” là “sao” đó mà
                        “Bổ” là “ngã”, “mả” là “mồ”
                        “Lọi cẳng” để nói đó là “duỗi chân”
                        Vải “đen” ắt hẳn vải “thâm”
                        ”Trụt quỳn” ý nói “tụt quần” thế thôi
                        “Dốc” là “trôộc”, “đôộng” là “đồi”
                        “Mui” là để chỉ cái “môi” trước mồm
                        “Đầu” là “trôốc”, “hun” là “hôn”
                        “Ló” chưa hết là “Lúa” còn đấy em
                        “Ngượng” là “rầy” “thích” là “sèm”
                        Ai hỏi đến “lả” thì châm “lửa” liền
                        “Nỏ” là “không” nhé đừng quên
                        “Lá trù” chính xác là tên “lá trầu”
                        “Mắc” là “bận”, “mô” là “đâu”
                        “Ăn nể” , “ăn vã” như nhau cả mà
                        Có người gọi “bọ” là “cha”
                        “Nương” là “vườn”, “rẫy” gọi là “nương” thôi
                        “Bù rợ” “bí đỏ” đúng rồi
                        “Nước chè” quê bạn, quê tôi “nác chè”
                        “Nướng” là phải “náng” đó nghe
                        Gọi mang lọ “mói” thì bê “muối” liền
                        Trốc cúi” là “đầu gối” chân
                        Gọi “đài” múc nước phải cầm “gầu” ngay
                        “Chủi” là cái “chổi” đây này
                        Nói “rờ” thì cứ đưa tay mà “sờ”
                        “Lúc này” tạm nói là “dừ”
                        “Luộc kỹ gốc” nhé, “Loọc nhừ côộc” nha,
                        “Con ga” để chỉ “con gà”
                        “Con bê” choa nói đó là “con me”
                        “Con suối” cứ gọi là “khe”
                        ”Châu chấu” ngoài đó, ở quê “cào cào”
                        “Hồ” nước được gọi là “bàu”
                        “Cá quả” cứ gọi “cá tràu” không sai
                        “Con người” thì nói “Con ngài”
                        ”Cù cu” tên gọi của loài “bồ câu”
                        “tối” nói “túi”, “túi” nói “bâu”
                        “Con sâu” có chỗ gọi “trâu” thật mà
                        “Hổ bắt” thì nói “khái tha”
                        “Muỗi”, “giòi” thì gọi đó là “mọi”, “troi”
                        “Con ruồi” thì nói “Con ròi”
                        Bắt “tôi” “Nhúng” đít thì “tui” “trụng” quần
                        “Con giun” phải nói “Con trùn”
                        “Với chắc” có nghĩa là cùng “với nhau”
                        “Lộ mô” có nghĩa “chỗ nào”
                        Nói “vo trôốc” là “gội đầu” đó em
                        “Gạo” thì gọi “gấu” đừng quên
                        Ai nói đến “trự” nhớ liền “chữ” ngay
                        ”Chạc” là để chỉ cái “dây”
                        Nói đi “đâm” gạo hiểu ngay “giã” rồi
                        Cả anh, em mẹ tới chơi
                        Đều chào là “cụ” thế thôi em ờ
                        “Sạu” thì phải hiểu là “ngô”
                        ”O” là bác gái và “cô” đó mà
                        “Mẹ chồng” vẫn gọi “mụ gia”
                        “Ràn tru” phải hiểu đó là “chuồng trâu”
                        “Ròi bu” ý nói “ruồi bâu”
                        Hỏi nơi “rửa bát” là đâu “lộ chồ”
                        Gọi “vợ” là “gấy”nhớ cho
                        Nói “Nhôông” ắt hẳn chính là “chồng” thôi
                        “Dao khoắm” là “rạ” đúng rồi
                        Bảo đi lấy “toóc” thì lôi “rạ” về
                        “Ruộng” là gọi “roọng” đó nghe
                        “Anh nha” cứ nói “eng hè” là xong
                        “Suôn” là “thẳng”, “ngoẹo” là “cong”
                        “Nỏ mần răng cả” là “không việc gì”
                        “Gõ đầu” là “trọi trốc” mi
                        “Kệ tau” ý nói làm gì “mặc tôi”
                        “Trúp vả” để chỉ cái “đùi”
                        “Ả nậy” – “chị lớn” biết rồi chứ em,
                        “Ngong” là “ nhìn”, “coi” là “xem”
                        “Mệ va” – “chị ấy” mong em chớ cười
                        “Lớn” thì nói “nậy” thế thôi
                        “Lõi” ngô, lõi mít nói “cồi” đừng lo
                        “Cây cọ” choa nói “cơn tro”
                        Gọi “tắn”, gọi “tít” “rắn” bò “rết” ra
                        “Mạo” là cái “mũ” đó nha
                        Trong đó từ “rạc” nghĩa là “xác xơ”
                        “Anh” là “eng”, “cô” là “O”
                        “Mun” trong bếp củi là “tro bếp” mà…
                        “Hãi” ma tức là “sợ” ma
                        Nói ai “khun nậy” chính là “lớn khôn”
                        “Cái ghế” thì gọi “cấy đòn”
                        “Ăn vụng” – “ăn phúng” là con một nhà
                        “Bà già” thì gọi “mụ tra”
                        Mẹ kêu lấy “đúa” cầm ra “rổ” này
                        “Tâm thần” thì gọi “ra ngây”
                        “Nồi đất” thì lại gọi ngay “trách bù”




                        Thử làm một bài kiểm tra nhỏ về khả năng dịch chuyển ngữ từ một đề thi Ngữ Văn lớp 7 (bạn trả lời dưới phần bình luận):
                        • Hãy viết hai câu thơ sau sang tiếng phổ thông:
                        “Mô rú mô ri mô nỏ chộ
                        Mô rào mô bể chộ mô mồ”.
                        Trần Xuân Tiến (tổng hợp)


                        Comment


                        • Font Size
                          #13
                          Làm dâu xứ Huế
                          Thùy An
                          Lấy chồng xứ Huế
                          Truyện vui

                          1. Quen Khanh đã ba năm, tôi không hề biết anh là người Huế. Anh nói tiếng Nam ngọt xớt. Những danh từ rất Nam bộ như “hưỡn”, “xí xọn”… anh đều hiểu rõ và đôi khi còn áp dụng vào những câu chuyện khôi hài rất có duyên. Cho đến khi tình cảm hai đứa chín muồi, Khanh ngõ ý:
                          -Ba me anh muốn biết mặt em.

                          Tôi theo Khanh về nhà trong tâm trạng vô cùng hồi hộp. Dù đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi vẫn cảm thấy bối rối, chân tay thừa thải trước tia nhìn vừa dịu dàng vừa soi mói của mẹ Khanh. Đó là người phụ nữ ngoài năm mươi, gương mặt tròn trịa, nước da trắng mịn phảng phất vài nếp nhăn nơi đuôi mắt. Tóc bà nhuộm màu nâu đen, được bới cao, cài trâm đồi mồi trông rất quí phái. Bà trang điểm nhẹ nhàng, một chút phấn hồng và môi son màu nhạt.

                          -Thưa mẹ, đây là Kiều Tiên, bạn gái của con.

                          Nụ cười của bà thật tươi:
                          -Kiều Tiên à? Cái tên dễ thương hí. Ngồi chơi đi cháu. Chờ bác một chút.

                          Bà đứng dậy đi vào trong, để lại tôi ngơ ngác sau khi nghe một loạt âm thanh líu lo như chim hót. Khanh nheo mắt:
                          -Sao? Không hiểu à? Anh đã nói rồi, gia đình anh người Huế, vậy mà không tin. Em có phải là chắt nội của Tào Tháo không đó?

                          Mẹ Khanh ra, trên tay bưng một cái dĩa hình bầu dục tráng men xanh. Bà đến gần tôi, đặt dĩa lên bàn:
                          -Ăn đông sương với bác cho vui.

                          Đông sương? Không phải. Đó là những miếng thạch dày khoảng hai phân, được cắt thành từng miếng hình thoi bằng ba ngón tay. Rải rác giữa lớp thạch trong suốt là những khối vuông nhỏ màu trắng, đen, nâu, cam và xanh lá cây.

                          Mẹ Khanh nhìn tôi chăm chú. Hình như bà đang nghĩ, con nhỏ này câm chắc? Và tôi cũng nghĩ, Kiều Tiên, hãy nói một câu gì đi chứ.
                          -Cháu cám ơn. Ô, thạch của bác làm đẹp quá.

                          Mẹ Khanh vui vẻ:
                          -Người Huế gọi thạch là đông sương cháu à. Cháu ăn đi, đừng sợ, bác không dùng màu thực phẩm mô –rồi bà lấy tăm ghim miếng thạch lên săm soi –cháu coi màu nì, màu trắng là sữa, đen là cà phê, nâu là cà phê sữa, lục là nước lá dứa, còn màu gạch là nước cà rốt.

                          Màu “gạch” là màu “cam”! Tôi lại học được một từ đặc trưng của Huế. Miếng thạch ngọt thanh tan trên đầu lưỡi, thấm vào lòng tôi những cảm giác dịu êm.

                          Cổng nhà Khanh bỗng mở toang. Một người đàn ông trung niên,giống Khanh như tạc phóng xe máy vào. Ông đứng trước thềm, tươi cười nhìn mẹ Khanh rồi chỉ tay vào giỏ xe: một chậu hoa dâm bụt vừa nở hai nụ hàm tiếu màu vàng. Mẹ Khanh đến gần, ngắm nghía:
                          -Mình mới mua hả? Ôi bông cẩn vàng, đẹp thiệt đó.

                          Tôi tròn mắt. Khanh ghé vào tai tôi:
                          -Người Huế gọi “Hoa dâm bụt” là “bông cẩn”.

                          Ba Khanh bước vào phòng khách, mẹ Khanh theo sau bảo Khanh:
                          -Con bưng chậu hoa xuống rồi đi cất xe cho ba.

                          Tôi đứng dậy, vòng tay:
                          -Cháu chào bác ạ.

                          -Cháu là bạn gái của Khanh phải không? Bác gái nói cho bác biết rồi.

                          Ba Khanh ngồi đối diện tôi, hỏi han ân cần. Giọng ông ấm áp, tuy âm sắc hơi nặng, có nhiều từ tôi không hiểu rõ, chỉ lờ mờ đoán ra. Nhưng ánh mắt ấy, cử chỉ ấy đã nói lên một tình cảm chân thành.

                          2. Tôi nhận lời cầu hôn của Khanh, mặc cho những lời bàn ra tán vào của đám bạn. Thật ra cũng vì thương tôi, nên chúng nó mới đề cao cảnh giác nhiệt tình như thế. Nào là: “Công dung ngôn hạnh mày có được bao nhiêu mà dám uống thuốc liều hở?”, “Làm dâu người Huế khó lắm, mày chịu được sao?”, “Chúng tao khuyên mày nên đi học vài khoá nấu ăn, làm bánh mới đủ sức đối phó.”…

                          Tôi bịt hai tai, hét:
                          -Chúng mày có im hết đi không? Tình yêu của Khanh đã cho ta đầy đủ mười thành công lực.

                          Nói thì oai lắm, nhưng lòng tôi cũng hơi run khi nghe ba Khanh bảo:
                          -Đám cưới xong, Khanh nên đưa Kiều Tiên về Huế thăm mệ và mấy O. Xa xôi quá, không ai vào chung vui cùng hai con được. Ba nghĩ là họ rất mong thấy mặt con dâu của ba.

                          Tôi lại càng run. Cái gì “mệ”, cái gì “O”?

                          Khanh lại “phụ đề Việt ngữ”:
                          -Mệ là… bà nội của anh đó. Còn O là hai người em gái của ba.

                          -Như vậy “O” có nghĩa là “cô” phải không anh?

                          -Đúng. Cho em 10 điểm. Còn “mệ”?

                          -Mệ là… bà nội chớ gì.

                          -Mệ là bà thôi. Mệ nội, mệ ngoại, là bà nội, bà ngoại.

                          -Sao hồi nãy anh nói mệ là bà nội? Tiền hậu bất nhất, cho anh zéro điểm là vừa.

                          -OK, anh chịu thua em 1 – 0 đó, bây giờ nghe anh nói tiếp nè.

                          -Bộ anh muốn em loạn thần kinh hả?

                          Khanh dỗ dành:
                          -Nếu em không chịu cho anh truyền thêm nội công thì làm sao ứng phó với bà con nội ngoại của anh ngoài Huế chứ.

                          Có lý. Mặc dù tôi chưa quen nghe giọng Huế, nhưng nếu tôi hiểu được những từ người Huế thường dùng, thì sự đồng cảm giữa tôi và “giang sơn nhà chồng” sẽ dễ dàng hơn. Tôi lấy tờ giấy và cây bút:
                          -Được rồi, anh nói đi. Em sẽ ghi và học thuộc lòng.

                          Khanh phấn chấn ra mặt:
                          -Em ngoan quá –rồi tằng hắng –Anh bắt đầu nè. Người Huế từ “mô” là “đâu”, ví dụ “anh đi mô?” có nghĩa là “anh đi đâu?”, “bên ni” là “bên này”, “bên nớ” là “bên kia”, “răng” là “sao”, “rứa” là “thế”, “kiệt” là “hẻm”, “tra” là “già”, “ăn kỵ” là “ăn giỗ”…

                          Đầu óc tôi lùng bùng, tay chân tôi quờ quạng. Khanh đặt câu hỏi:
                          -Đố em, “ôn” là gì?”

                          Tôi xếp giấy lại, thở phào:
                          -Anh hết vốn rồi hả? Đố như anh, con nít cũng biết. Ôn là ôn tập chớ gì.

                          Khanh kí vào đầu tôi:
                          -Cho em xuống học lớp Lá là vừa. “Ôn” là “Ông”. Gặp các ông già, người ta thường “Thưa ôn”, cũng như đối với các bà lão, người ta thường “thưa mệ”…

                          Khanh tiếp tục đưa tôi vào mê hồn trận:
                          -À, anh nhắc em điều này, nếu thấy một người đàn ông được gọi là “Mệ” thì em cũng đừng ngạc nhiên, vì đó là những người trong hoàng tộc…

                          Tôi hét lên:
                          -Cái gì? Ôi em bị tẩu hoả nhập ma rồi.

                          3. “Giang sơn nhà chồng” của tôi toạ lạc giữa một khoảng vườn xanh tốt trong thành nội, gồm ba căn nhà trệt lợp ngói rộng rãi, ngăn cách nhau bởi các dãy hàng rào bằng cây thấp, lá nhỏ, quấn quít những sợi dây leo màu vàng. Khanh nói:
                          -Bà nội anh rất thích chăm sóc vườn tược. Hàng rào chè tàu này còn già hơn tuổi của anh nữa đó, còn kia là những dây tơ hồng. Em thấy có đẹp không? Ngày trước, nhà anh chỉ có một căn thôi, sau này hai O lập gia đình, bà nội mới xây thêm hai căn nữa, của hồi môn ấy mà.

                          Có tiếng reo:
                          -Khanh, cháu Khanh đó phải không?

                          Một phụ nữ khoảng trên dưới năm mươi, mặc quần tây nâu, áo hoa sặc sỡ, từ căn nhà bên phải chạy ra. Tóc bà uốn cao, nước da trắng, miệng cười có má lúm đồng tiền.

                          -Đây là O Hương của anh.

                          -Cháu chào… O ạ.

                          O Hương tiến đến gần, vuốt má tôi:
                          -Vợ thằng Khanh đây hả. Chà, hai đứa xứng đôi lắm đó nghe –rồi bà kéo tay tôi và Khanh về phía căn nhà giữa –Mạ ơi, vợ chồng Khanh về tới rồi nì.

                          Khanh nhìn sang căn nhà bên trái cửa khoá ngoài. O Hương nói:
                          -O dượng Hoà về làng ăn kỵ rồi. Chắc là mai mới lên.

                          Nãy giờ tôi cố ý lắng nghe. Eureka, tôi đã nhớ. “Ăn kỵ” là “ăn giỗ”, còn “mạ”? Chắc là “mẹ” rồi. Xem ra tiếng Huế đâu có khó gì, khỏi cần Khanh làm thông dịch.

                          Bà nội của Khanh rất đẹp lão. Mái tóc bà bạc phơ, gương mặt hồng hào, phúc hậu. Bà đang ngồi trên chiếc ghế mây cạnh ngưỡng cửa, miệng cười móm mém, âu yếm nhìn Khanh đi bên tôi.

                          -Chúng cháu chào mệ.

                          Bà gật đầu rồi đưa tay níu lấy vai Khanh:
                          -Đỡ mệ vô nhà.

                          Bà nhỏ bé trong vòng tay Khanh, bước chân bà khập khiểng. Khanh lo lắng:
                          -Mệ, mệ bị sao vậy?

                          O Hương đỡ lời:
                          -Hôm qua mệ ra vườn tưới cây, mệ bị bổ.

                          -Im đi, tau bớt rồi –bà nhìn O Hương từ đầu đến chân –mi bận cái áo chi mà loè loẹt rứa? Tra rồi, gần làm mụ gia rồi, còn bày đặt diện.

                          Tôi nói nhỏ với Khanh:
                          -Em hiểu từ “tra” rồi, nhưng “bổ”là gì? Còn “mụ gia”?

                          -“Bổ” là “té”, còn “mụ gia” là “mẹ vợ” hoặc “mẹ chồng”. Xứ Huế anh có câu: “Thương chồng mà khóc mụ gia, chớ tui với mụ chẳng bà con chi.”

                          Tôi che miệng cười. Bà nội Khanh ngồi trên sập gụ, vẫy Khanh và tôi lại gần. Bà vuốt tóc tôi:
                          -Mệ có coi bóng đám cưới, trông cháu đẹp hơn trong bóng nhiều. Biết hai cháu sắp ra thăm mệ, đêm mô mệ cũng nằm chộ.

                          Khanh thông dịch ngay:
                          -“Bóng” là “hình”…

                          Tôi ngắt lời:
                          -Còn “nằm chộ” là “nằm mơ”, đúng không?

                          -Very good, em thông minh thật đấy.

                          Bà nội Khanh có vẻ thích tôi. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, từ chuyện làng xóm, đến chuyện những người trong họ tộc, chuyện gia đình Khanh… giọng bà nhẹ nhàng, thân ái. Vì đã ôn tập trước, nên những từ rặt Huế như răng, mô, tê, rứa… tôi hiểu dễ dàng. Và càng lúc, tôi càng thấy gần gũi bà, thương yêu bà hơn.

                          -Cháu biết không? Chồng của cháu rất thích ăn chè thịt quay.

                          Chè thịt quay là gì? Tôi nhìn quanh tìm Khanh. Nhưng thôi, khỏi cần thắc mắc, chẳng qua cũng chỉ là món chè bình thường, cứ ăn vào là biết ngay thôi mà. Bà gọi:
                          -Hương ơi, lấy cà mèn đi mua chè thịt quay cho các cháu ăn đi con.

                          O Hương bảo Khanh:
                          -Cháu qua nhà dắt dùm chiếc xe ra cho O.

                          -Để cháu chở O đi.

                          Khanh đến bên tôi:
                          -Em ở nhà với mệ được không?

                          Tôi vênh mặt:
                          -Anh khỏi lo. Mệ nói gì em cũng hiểu hết.
                          *

                          Tôi đi thơ thẩn trong vườn. Nắng chiều dìu dịu, gió chiều êm ái. Lòng tôi rộn vui theo tiếng chim hót chuyền cành. Hình như bà nội gọi:
                          -Vợ thằng Khanh mô rồi?

                          Tôi hấp tấp chạy vào:
                          -Mệ sai cháu gì ạ?

                          -Cháu ra ngoài “cươi” lấy cái “chủi”, “xuốt” dùm mệ cái “dà”.

                          -!!!

                          Lần này thì tôi thua thật. Khanh ơi, mau về cứu em.

                          Trang Thùy An
                          https://tudientiengdiaphuong.fandom....A9_Hu%E1%BA%BF
                          Truyện vui không phải chuyện cười đâu nha.

                          Comment


                          • Font Size
                            #14
                            nghe miết thành quen ... "ba miền" ... lớn lên cứ tưởng chỉ có là Nam Trung Bắc ... còn Đông ... Tây thì sao ?? rồi Tây Bắc nữa ...

                            Có lần nghe hai người Huế nói chuyện với nhau ... mình như vịt nghe sấm ... hiểu ra mới biết thật có tiếng Việt "phố" và tiếng Việt "miệt vườn" ...
                            Cô em gái Hội An nói "anh nói tiếng miền Nam hây quá" "... anh là người miền Nam mà ... nhưng em cũng nói tiếng miền Nam ... anh nghe có khác gì đâu ??" ... "... tụi em học ... vì nói bằng giọng của em không chắc anh hiểu" chuyện nầy thì đồng ý quá rồi (tiếng Việt thời nay là "nhất trí") ... dìa Sài Gòn tìm mua tự điển tiếng Việt ... nhớ hồi trước có tự điển Việt-Anh ... Anh-Việt của Lê Bá Kông và Nguyễn Văn Khôn ... tự điển nguyên thủy cứ in mà bán ... đi học viết bài thầy đọc ... hỏi "những chữ nầy ở đâu mà có"
                            Năm 2018 người anh họ tặng cho bản tự điển mới tái bản 2018 của Hoàng Phê ... vậy là có 1994 và 2018 ... + thêm bản 2003 pdf mới rinh dìa
                            học tiếng Việt không phải dễ nghe đâu đám trẻ ngoài biển luyện chưởng học tiếng Việt ... bé Xuân Maì già rồi ... và chỉ vài video đầu của Thế Hệ "Chẻ" thì chỉ coi là tạm được được ... tui nói những gì tui thấy tui nghĩ và ... không chắc là đúng ... nhưng tui thấy là vậy ...

                            Comment


                            • Font Size
                              #15
                              Chả biết là vô tình hay cố ý ... vài truyện đọc của Hẻm Radio góp phần không ít vào công cuộc lai tiếng Việt miền Nam ...
                              Đóng góp tích cực vào đây lại là những người miền Nam rặc ...

                              Hai truyện vừa nghe qua là:
                              1. Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng ... từ ngữ văn chương miền Bắc được người miền Nam đọc giọng miền Nam.
                              2. Truyện Cổ Nước Nam của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc ... Tập truyện nầy được tái bản nhiều lần ... bản gốc là từ ngữ văn chương miền Bắc với những chữ như "có nhẽ", "đáng nhẽ", "nhời nhẽ", "người nhớn" ... Hẻm Radio cho đọc bằng giọng miền Nam ... trong khi tái bản in lần thứ tư năm 1958 dùng chữ "có lẽ", "đáng lẽ", "lời lẽ", "người lớn" thì Hẻm Radio "không biết" ... cho là nếu đọc theo đây thì là thiếu tôn trọng tác giả

                              Tui nghĩ "Số Đỏ" nên được đọc bằng giọng miền Bắc thì hây hơn
                              Truyện Cổ Nước Nam (bản gốc) cũng nên được đọc bằng giọng miền Bắc thì hây hơn
                              Truyện Cổ Nước Nam (tái bản 4th) đọc bằng giọng nào cũng được và giọng miền Nam thì nên đọc tái bản nầy

                              Dân Việt "ba rọi" rất tự hào nghe theo Hẻm

                              Nhắc đến ba rọi thì nhớ ... trong 100 Tảng Mạn Hồn Quê của Dạ Ngân
                              Ngòi viết của Dạ Ngân cũng bén ... nên hình như bị phạm ...
                              thịt "BA DỌI" ... viết sao thì được đọc đọc vậy à
                              người đọc hình như là Thủy Tiên !!!
                              thì ra ------------------------------ !!!
                              ba dọi là thịt heo lai lợn !!!


                              Comment

                              Working...
                              X