Thôi, tất cả như trang sách đã lật qua, hãy viết tờ vở mới.
Khi vào tới Làng Ho tôi cảm thấy như đã tới nhà. Mải miết trèo, lội, bò, lết. Cố vượt và không để bị bệnh.
Quả thật, trời còn ngó lại, tôi không phải nằm lại một trạm nào. Với chức Đoàn Phó của một đoàn cán bộ từ thiếu úy trở lên, tôi chu toàn và đã làm gương tốt suốt bốn tháng hành quân.
Đi bương về nhà để gặp gia đình, để cưới vợ, trong thâm tâm thằng Nam Kỳ nào cũng nghĩ vậy, nhưng thằng nào cũng làm bộ trở về giải phóng Miền Nam.
Trời run đất rủi làm sao khi về, đến khu 6 giáp ranh Nam Bộ thì gặp Sáu Phương, bạn cũ hồi chin năm, trưởng đường dây khu 6, cái gút giữa Nam Bộ và Khu 5.
Trong số nữ giao liên có một cô gái tên Thu Hà, người Tân An, quê tôi. Thu Hà là y tá đường dây của Sáu Phương phụ trách. Chặng đường này là chặng đường bò lê, người chết như rạ. Bởi vì từ làng Ho (ho gió) vào tới đây là 38 trạm. Ho gió trở thành “ho ra máu” .
Về đến ranh Bà Rịa rồi, còn một bước là đạp lên đất Nam Kỳ thế mà có nhiều người lại gục không ráng nổi.
Anh bạn Trần Chánh Lý của tôi đã sốt rét mấy cữ liền, tôi nhân danh Đoàn Phó bắt anh ở lại dưỡng sức nhưng anh nôn nao không nằm lại được. Tôi đành phải chia đồ đạc súng ống của Lý cho anh em, mỗi người mang giúp anh một ít để anh đi tay không với chiếc gậy. (Bây giờ ngồi viết lại những giòng này tôi rởn óc đầy mình.)
Mặt Lý xanh một cách quái gỡ nhưng vẫn ráng lết chỏi cây gậy đi theo. Lên dốc, anh em phải lôi, phải đủn. Anh vừa dướn lên vừa hổn hển nói:
- “Có chết cũng về tới Bà Rịa rồi hãy chết”.
Anh cố đi được một trạm. Hôm sau đi tiếp. Đi một lúc, tôi mới bảo cậu trong đoàn đến giúp đỡ cho Lý. Nhưng cách đó không xa, Lý ngồi dựa gốc cây mà chết.
Lý chết ngon lành. Thế mà chết được. Còn mấy bước nữa là tới Bà Rịa mà nỡ chết, không cố nổi nữa. Cố sao được mà cố. Sốt rừng ba cơn là kiệt sức rồi. Huống chi Lý sốt đã cả tháng trời. Lý quê ở Hà Tiên, Pháo chống tăng 57 và 85 ly.
Chúng tôi chôn Lý ngay bên vệ đường, làm dấu.
Về đến trạm Sáu Phương tôi mới thuật lại tình cảnh. Sáu Phương khóc ròng. Anh ta người to lớn, mặt mũi thô kệch nhưng lòng dạ thì tốt đẹp vô cùng. Anh cho giao liên của anh ra đến tận nơi làm rào dựng bia và bảo tôi ghi rõ địa chỉ, gia đình, chức vụ, ngày giờ hy sinh vào quyển sổ của đường dây của đoạn đường này. Anh bảo tôi:
– Đồng chí nhìn đó. Trước đồng chí ấy có bao nhiêu đồng chí đã yên nghỉ nơi đoạn đường này. Đến đây là mọi người kiệt sức. Bởi thế cho nên ở trên cho trạm này ba y tá để tiếp sức anh em.
Sau cái tang đau đớn, tôi được một mối tình. Thu Hà, cô y tá yêu tôi một cách đơn giản :
Vì tôi là người Tân An. Thu Hà dong dỏng cao, có đôi môi rất xinh. Mặc dù bị sốt rét, môi Thu Hà cũng không tái nhợt.
Chúng tôi ở lại trại này nghỉ ngơi chờ lãnh gạo rồi đi tiếp. Đây là lần lãnh gạo cuối cùng cho tới đất Nam Bộ. Nhờ có thì giờ, tôi nói chuyện với Thu Hà rất nhiều. Thu Hà làm cho tôi xúc động mãnh liệt, không phải với những lời văn hoa của tiểu thuyết mà với những tên chợ, tên làng, tên ấp xóm, tên bến xe, tên bến đò, nơi tôi và Thu Hà từng biết hoặc đến.
Thu Hà trước đây làm y tá ở vùng Tam Biên nhưng đường dây Trường Sơn cần hơn. Càng ngày khách càng ốm và chết ở chặng này nhiều hơn bao giờ hết. Do đó, đường dây mới lập trạm cứu thương nho nhỏ để phát thuốc kí-ninh và băng vết trầy trên chân cho khách và Thu Hà được thuyên chuyển ra đây.
Thu Hà muốn trở về vùng Tam Biên nhưng ở trên cứ khất lần hồi. Thu Hà không nói ra những ý định đó nhưng tôi biết nàng chán cảnh núi rừng. Tôi hứa khi tôi về tới trong này tôi tìm cách rút nàng về. Có lẽ nàng không nghĩ rằng tôi làm được việc đó, nàng chỉ tin rằng tôi yêu nàng, một thứ tình yêu điểm xuyết bằng những cái hôn trên giấy năm, bảy tháng một lần.
Trước khi chúng tôi rời trạm để Nam tiến trạm cuối cùng, Sáu Phương đã chơi một cú tuyệt đẹp để đời. Tôi không bao giờ quên tấm lòng vàng của Sáu Phương. Phương gọi tất cà nhân viên trạm lại và nói như ra lệnh :
– Các đồng chí chúng ta sắp về đến nơi, cần một số đồ ăn để đắp đầu gối. Các em có gì đưa hết ra tặng các đồng chí. Tôi không bắt buộc. Ai muốn làm thì làm.
Giọng Sáu Phương ồm ồm như thùng thiếc bể. Nửa đùa, nửa thật. Phương nói mấy câu rồi nghẹn ngang nhưng nhân viên trong trại lầm lủi về lều trút hết các loại khô voi, khô khỉ, khô nai, khô mển .. đem ra chất đống trước mặt vị chỉ huy của họ.
Tôi thay mặt đoàn đáp lại ngay, tôi nói :
– Thay mặt đoàn trưởng đang ốm, tôi cũng xin cảm ơn các đồng chí, cảm ơn các đồng chí trạm không bằng lời nói suông mà bằng hành động cụ thể.
Tôi vừa nói xong anh em đi moi ba-lô đem ra những gói những hộp chất đối diện đống lương khô của trạm. Đó là những hộp thuốc trụ sinh, kháng sinh, những hộp thuốc bổ, những gói kí-ninh, những bọc quần áo …
Chúng tôi khóc với nhau. Thu Hà đã tìm đến tặng tôi một hộp ruốc nai. Nàng bảo :
“Anh cố về đến quê nhé. “ Rồi khóc mùi. Tôi tặng lại Thu Hà tấm vải dù.
– Vải này nhẹ, mỏng, nhưng đắp ấm lắm. Em giữ lấy như thấy anh hằng ngày !
Rồi chúng tôi chia tay. Tôi ra đi cứ quay ngó lại. Ở gốc cây bàng lăng thân trắng và có đốm nâu đậm nhạt, một đôi mắt nhìn theo tôi, một đôi mắt ướt.
Về đến R tôi tìm cách để móc Thu Hà về trong này, nhưng tôi không có quyền hạn gì. Hơn nữa tôi cứ đi hết địa điểm này đến địa điểm khác, công tác này xong lại có công tác mới. Một năm trời, tôi viết cả mấy chục bức thư, chẳng được một chữ trả lời. Tôi nhớ mấy câu trao đổi giữa tôi và Sáu Phương. Tôi nó i:
– Tôi về trỏng, tôi xin gởi lại anh hai người : một sống một chết.
Sáu Phương nhạy lắm, trả lời ngay :
– Mộ anh bạn pháo binh tao sẽ cho làm thêm, còn con Hà là con nuôi tao. Mày tìm cách vận động tao sẽ gởi nó về cho. Tao tội nghiệp tụi con gái yếu đuối quá nhưng ở trên bảo vậy tao không cải được.
Bây giờ từ R tôi trôi xuống nằm ở rìa Củ Chi rồi đây. Ngày mai còn dạt tới đâu nữa. Dù tôi đi đến đâu thì cái hôn tạm biệt chúng tôi trao cho nhau vẫn còn ấm trên làn da phong trần của tôi và dư âm của hai tiếng “Thu Hà” vẫn còn rung động trong tim tôi như một chiếc lá con sau trận gió.
Con đường đã qua chẳng đời nào trở lại, đó chính là con đường Trường Sơn. Ở đó không có gì ngoài cái chết. Cái chết hãy còn lởn vởn với tôi đến hôm nay ở quanh quẩn đâu đây bên bộ ván gõ. Bé Rớt nằm im thở đều đều trong giấc ngủũ vô tư.
Bất giác tôi đứng dậy đi ra hàng ba nhìn về bốn phương trời xa. Những đốm quả châu nhấp nháy trên nền trời xa thẳm.
Đó là Đồng Dù, kia là Củ Chi. Nọ là Đức Hòa còn đây là Bến Súc, Bến Cát. Xa nữa là Lai Khê. Củ Chi bị bao vây bốn phía. Mười lăm xã nằm gọn trong những dãy hàng rào đồn bót. Củ Chi về đêm như một mảnh khăn đen xé rách từng nơi với những tia lửa xanh đỏ vàng tím, ngắn dài.
Tôi bất giác rùng mình và trở vào nằm nép mình bên bé Rớt như sợ hãi và mong nó che chở cho.
Đêm sâu thăm thẳm và lạnh ngắt. Một cái lạnh bất thường, một sự im lặng trước giờ bùng nổ, một cái bẫy hòa bình. Không có một cơn gió lạnh, nhưng tự nhiên tôi rùng mình.
Bé Rớt vẫn nằm yên, hơi thở đều đều. Lứa tuổi này đã bỏ trường ở nhà để cút bắt với bom đạn. Phải mình ở nhà bây giờ ít nhất cũng có vài đứa như bé Rớt. Tôi tự an ủi với một ý nghỉ vớ vẩn. Tôi cố nhắm mắt để dổ giấc ngủ. Nhưng đầu óc vẫn tỉnh khô.
Trần Chánh Lý như đang ngồi đó lưng tựa vào gốc cây, đầu gục xuống. Hà Tiên của Lý là cái gốc cây đó. Thu Hà núp sau thân cây bàng lăng nhìn theo. Những lá thư không hồi âm. Đôi mắt ướt vẫn còn ướt.
Một năm rồi. Còn mấy năm nữa. Ngán ngẫm vô cùng. Một làn hương nhẹ từ ngoài hiên len qua khe cửa, lan khắp nhà. Mùi bông vú sữa! Bây giờ là tháng mấy mà vú sữa trổ bông? Không biết. Đó là đặc điểm của dân tập kết. Không biết mùa nào trồng cây nào, mùa nào có me, xoài, mùa nào có cam quít, lúa cấy vào tháng mấy, bông điệp trổ bông vào tháng nào?
Trên mười năm ly hương hình ảnh quê hương nhạt dần như một khái niệm …
Khi vào tới Làng Ho tôi cảm thấy như đã tới nhà. Mải miết trèo, lội, bò, lết. Cố vượt và không để bị bệnh.
Quả thật, trời còn ngó lại, tôi không phải nằm lại một trạm nào. Với chức Đoàn Phó của một đoàn cán bộ từ thiếu úy trở lên, tôi chu toàn và đã làm gương tốt suốt bốn tháng hành quân.
Đi bương về nhà để gặp gia đình, để cưới vợ, trong thâm tâm thằng Nam Kỳ nào cũng nghĩ vậy, nhưng thằng nào cũng làm bộ trở về giải phóng Miền Nam.
Trời run đất rủi làm sao khi về, đến khu 6 giáp ranh Nam Bộ thì gặp Sáu Phương, bạn cũ hồi chin năm, trưởng đường dây khu 6, cái gút giữa Nam Bộ và Khu 5.
Trong số nữ giao liên có một cô gái tên Thu Hà, người Tân An, quê tôi. Thu Hà là y tá đường dây của Sáu Phương phụ trách. Chặng đường này là chặng đường bò lê, người chết như rạ. Bởi vì từ làng Ho (ho gió) vào tới đây là 38 trạm. Ho gió trở thành “ho ra máu” .
Về đến ranh Bà Rịa rồi, còn một bước là đạp lên đất Nam Kỳ thế mà có nhiều người lại gục không ráng nổi.
Anh bạn Trần Chánh Lý của tôi đã sốt rét mấy cữ liền, tôi nhân danh Đoàn Phó bắt anh ở lại dưỡng sức nhưng anh nôn nao không nằm lại được. Tôi đành phải chia đồ đạc súng ống của Lý cho anh em, mỗi người mang giúp anh một ít để anh đi tay không với chiếc gậy. (Bây giờ ngồi viết lại những giòng này tôi rởn óc đầy mình.)
Mặt Lý xanh một cách quái gỡ nhưng vẫn ráng lết chỏi cây gậy đi theo. Lên dốc, anh em phải lôi, phải đủn. Anh vừa dướn lên vừa hổn hển nói:
- “Có chết cũng về tới Bà Rịa rồi hãy chết”.
Anh cố đi được một trạm. Hôm sau đi tiếp. Đi một lúc, tôi mới bảo cậu trong đoàn đến giúp đỡ cho Lý. Nhưng cách đó không xa, Lý ngồi dựa gốc cây mà chết.
Lý chết ngon lành. Thế mà chết được. Còn mấy bước nữa là tới Bà Rịa mà nỡ chết, không cố nổi nữa. Cố sao được mà cố. Sốt rừng ba cơn là kiệt sức rồi. Huống chi Lý sốt đã cả tháng trời. Lý quê ở Hà Tiên, Pháo chống tăng 57 và 85 ly.
Chúng tôi chôn Lý ngay bên vệ đường, làm dấu.
Về đến trạm Sáu Phương tôi mới thuật lại tình cảnh. Sáu Phương khóc ròng. Anh ta người to lớn, mặt mũi thô kệch nhưng lòng dạ thì tốt đẹp vô cùng. Anh cho giao liên của anh ra đến tận nơi làm rào dựng bia và bảo tôi ghi rõ địa chỉ, gia đình, chức vụ, ngày giờ hy sinh vào quyển sổ của đường dây của đoạn đường này. Anh bảo tôi:
– Đồng chí nhìn đó. Trước đồng chí ấy có bao nhiêu đồng chí đã yên nghỉ nơi đoạn đường này. Đến đây là mọi người kiệt sức. Bởi thế cho nên ở trên cho trạm này ba y tá để tiếp sức anh em.
Sau cái tang đau đớn, tôi được một mối tình. Thu Hà, cô y tá yêu tôi một cách đơn giản :
Vì tôi là người Tân An. Thu Hà dong dỏng cao, có đôi môi rất xinh. Mặc dù bị sốt rét, môi Thu Hà cũng không tái nhợt.
Chúng tôi ở lại trại này nghỉ ngơi chờ lãnh gạo rồi đi tiếp. Đây là lần lãnh gạo cuối cùng cho tới đất Nam Bộ. Nhờ có thì giờ, tôi nói chuyện với Thu Hà rất nhiều. Thu Hà làm cho tôi xúc động mãnh liệt, không phải với những lời văn hoa của tiểu thuyết mà với những tên chợ, tên làng, tên ấp xóm, tên bến xe, tên bến đò, nơi tôi và Thu Hà từng biết hoặc đến.
Thu Hà trước đây làm y tá ở vùng Tam Biên nhưng đường dây Trường Sơn cần hơn. Càng ngày khách càng ốm và chết ở chặng này nhiều hơn bao giờ hết. Do đó, đường dây mới lập trạm cứu thương nho nhỏ để phát thuốc kí-ninh và băng vết trầy trên chân cho khách và Thu Hà được thuyên chuyển ra đây.
Thu Hà muốn trở về vùng Tam Biên nhưng ở trên cứ khất lần hồi. Thu Hà không nói ra những ý định đó nhưng tôi biết nàng chán cảnh núi rừng. Tôi hứa khi tôi về tới trong này tôi tìm cách rút nàng về. Có lẽ nàng không nghĩ rằng tôi làm được việc đó, nàng chỉ tin rằng tôi yêu nàng, một thứ tình yêu điểm xuyết bằng những cái hôn trên giấy năm, bảy tháng một lần.
Trước khi chúng tôi rời trạm để Nam tiến trạm cuối cùng, Sáu Phương đã chơi một cú tuyệt đẹp để đời. Tôi không bao giờ quên tấm lòng vàng của Sáu Phương. Phương gọi tất cà nhân viên trạm lại và nói như ra lệnh :
– Các đồng chí chúng ta sắp về đến nơi, cần một số đồ ăn để đắp đầu gối. Các em có gì đưa hết ra tặng các đồng chí. Tôi không bắt buộc. Ai muốn làm thì làm.
Giọng Sáu Phương ồm ồm như thùng thiếc bể. Nửa đùa, nửa thật. Phương nói mấy câu rồi nghẹn ngang nhưng nhân viên trong trại lầm lủi về lều trút hết các loại khô voi, khô khỉ, khô nai, khô mển .. đem ra chất đống trước mặt vị chỉ huy của họ.
Tôi thay mặt đoàn đáp lại ngay, tôi nói :
– Thay mặt đoàn trưởng đang ốm, tôi cũng xin cảm ơn các đồng chí, cảm ơn các đồng chí trạm không bằng lời nói suông mà bằng hành động cụ thể.
Tôi vừa nói xong anh em đi moi ba-lô đem ra những gói những hộp chất đối diện đống lương khô của trạm. Đó là những hộp thuốc trụ sinh, kháng sinh, những hộp thuốc bổ, những gói kí-ninh, những bọc quần áo …
Chúng tôi khóc với nhau. Thu Hà đã tìm đến tặng tôi một hộp ruốc nai. Nàng bảo :
“Anh cố về đến quê nhé. “ Rồi khóc mùi. Tôi tặng lại Thu Hà tấm vải dù.
– Vải này nhẹ, mỏng, nhưng đắp ấm lắm. Em giữ lấy như thấy anh hằng ngày !
Rồi chúng tôi chia tay. Tôi ra đi cứ quay ngó lại. Ở gốc cây bàng lăng thân trắng và có đốm nâu đậm nhạt, một đôi mắt nhìn theo tôi, một đôi mắt ướt.
Về đến R tôi tìm cách để móc Thu Hà về trong này, nhưng tôi không có quyền hạn gì. Hơn nữa tôi cứ đi hết địa điểm này đến địa điểm khác, công tác này xong lại có công tác mới. Một năm trời, tôi viết cả mấy chục bức thư, chẳng được một chữ trả lời. Tôi nhớ mấy câu trao đổi giữa tôi và Sáu Phương. Tôi nó i:
– Tôi về trỏng, tôi xin gởi lại anh hai người : một sống một chết.
Sáu Phương nhạy lắm, trả lời ngay :
– Mộ anh bạn pháo binh tao sẽ cho làm thêm, còn con Hà là con nuôi tao. Mày tìm cách vận động tao sẽ gởi nó về cho. Tao tội nghiệp tụi con gái yếu đuối quá nhưng ở trên bảo vậy tao không cải được.
Bây giờ từ R tôi trôi xuống nằm ở rìa Củ Chi rồi đây. Ngày mai còn dạt tới đâu nữa. Dù tôi đi đến đâu thì cái hôn tạm biệt chúng tôi trao cho nhau vẫn còn ấm trên làn da phong trần của tôi và dư âm của hai tiếng “Thu Hà” vẫn còn rung động trong tim tôi như một chiếc lá con sau trận gió.
Con đường đã qua chẳng đời nào trở lại, đó chính là con đường Trường Sơn. Ở đó không có gì ngoài cái chết. Cái chết hãy còn lởn vởn với tôi đến hôm nay ở quanh quẩn đâu đây bên bộ ván gõ. Bé Rớt nằm im thở đều đều trong giấc ngủũ vô tư.
Bất giác tôi đứng dậy đi ra hàng ba nhìn về bốn phương trời xa. Những đốm quả châu nhấp nháy trên nền trời xa thẳm.
Đó là Đồng Dù, kia là Củ Chi. Nọ là Đức Hòa còn đây là Bến Súc, Bến Cát. Xa nữa là Lai Khê. Củ Chi bị bao vây bốn phía. Mười lăm xã nằm gọn trong những dãy hàng rào đồn bót. Củ Chi về đêm như một mảnh khăn đen xé rách từng nơi với những tia lửa xanh đỏ vàng tím, ngắn dài.
Tôi bất giác rùng mình và trở vào nằm nép mình bên bé Rớt như sợ hãi và mong nó che chở cho.
Đêm sâu thăm thẳm và lạnh ngắt. Một cái lạnh bất thường, một sự im lặng trước giờ bùng nổ, một cái bẫy hòa bình. Không có một cơn gió lạnh, nhưng tự nhiên tôi rùng mình.
Bé Rớt vẫn nằm yên, hơi thở đều đều. Lứa tuổi này đã bỏ trường ở nhà để cút bắt với bom đạn. Phải mình ở nhà bây giờ ít nhất cũng có vài đứa như bé Rớt. Tôi tự an ủi với một ý nghỉ vớ vẩn. Tôi cố nhắm mắt để dổ giấc ngủ. Nhưng đầu óc vẫn tỉnh khô.
Trần Chánh Lý như đang ngồi đó lưng tựa vào gốc cây, đầu gục xuống. Hà Tiên của Lý là cái gốc cây đó. Thu Hà núp sau thân cây bàng lăng nhìn theo. Những lá thư không hồi âm. Đôi mắt ướt vẫn còn ướt.
Một năm rồi. Còn mấy năm nữa. Ngán ngẫm vô cùng. Một làn hương nhẹ từ ngoài hiên len qua khe cửa, lan khắp nhà. Mùi bông vú sữa! Bây giờ là tháng mấy mà vú sữa trổ bông? Không biết. Đó là đặc điểm của dân tập kết. Không biết mùa nào trồng cây nào, mùa nào có me, xoài, mùa nào có cam quít, lúa cấy vào tháng mấy, bông điệp trổ bông vào tháng nào?
Trên mười năm ly hương hình ảnh quê hương nhạt dần như một khái niệm …
Comment